Thứ Ba, 7 tháng 11, 2017

LÝ LỊCH CỦA ĐỨC GIÊSU

Chúa Giêsu là một trong những nhân vật nổi bật nhất trong giòng lịch sử nhân loại, có tầm ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống tâm linh và văn hóa của hàng tỷ người
(1). Vì thế, làm sao biết rõ được "lý lịch" của Ngài là một trong những khát vọng sâu xa của nhiều người qua nhiều thời đại khác nhau. Trong ngành Thần học Kinh Thánh các nhà chuyên môn đã và đang nỗ lực tìm cho ra "bộ mặt thật" của Ngài, nói một cách khác, họ cố gắng tìm về một "Original-Jesus".
Chúa Giêsu Kitô - kinh Tin Kính ngắn gọn nhất của Giáo Hội (GH) sơ khai: Chúa Giêsu là Đấng Kitô; rồi sau này đã trở thành tên kép của Ngài. Tên này xuất hiện rất sớm, nhưng thuở ban đầu thường được viết ngược lại là (Đấng) Kitô Giêsu (2) - đã bị tinh thần khoa học tách làm đôi: một đàng là "con người" Giêsu và một đàng là "Đấng" Kitô. Con người Giêsu thuộc lịch sử, Đấng Kitô thuộc Thần Học. Người ta cho rằng, biến cố phục sinh như một vực thẳm sâu hun hút, không thể bắc cầu nối nhịp giữa hai bờ xa cách: mặt "phải" và "trái" của cùng một nhân vật. "Mặt trái" Giêsu và "mặt phải" Kitô. "Giữa Chúa Giêsu tiền phục sinh và hoàn cảnh hậu phục sinh là một nấm mồ" (R. Bultmann). "Nhân vật Giêsu" đã được đức tin và tín lý của GH sơ khai cắt xén và tô điểm khá nhiều, để "dựng đứng" nên một "Đấng Kitô". Đấng Kitô ấy đã được "phong thần", nên không còn trung thực là một Giêsu như trước nữa. Do đó, muốn tìm về một "Original-Jesus", người ta phải lo cạo sạch "lớp sơn" Tín lý đã phủ bên ngoài đó đi. Rất may, khuynh hướng tách biệt "Chúa Giêsu lịch sử" với "Đức Kitô đức tin" đã dần dần mất đất đứng trong nền Thần Học hiện nay.

Khuynh hướng này thực ra là đứa con của phong trào "Khai Hóa" (Aufklaerung) (hoặc "Khai Sáng": siècle des lumières) tại Âu Châu. Phong trào này phát triển mạnh vào thế kỷ 18 vừa qua và có ảnh hưởng cả tới ngành nghiên cứu Kinh Thánh, điển hình nhất phải kể đến sự khai sinh của phương pháp phê bình lịch sử trong ngành này. Theo phương pháp này, tất cả những gì trước đó được coi là chân lý đều phải đem ra hồ nghi và xét lại dưới ánh sáng của lịch sử, theo tiêu chuẩn xác thực của sử học, sau đó nếu cần sẽ "sửa sai" chân lý sẵn có. Thêm vào đó, người ta còn áp dụng các phương pháp khác, như phê bình văn chương, phê bình tài liệu, lịch sử hình thành và soạn thảo các bản văn..., cũng như dựa vào các khám phá của ngành khảo cổ, để soi sáng vấn đề.
Ban đầu, vấn đề nguồn gốc của GH được đem ra đặt lại. Người ta tự hỏi: Chúa Giêsu có muốn thiết lập GH và có thực sự đứng ra thiết lập GH một cách trực tiếp không (như Mt 16, 18 cho biết), hay GH chỉ là "một tiến trình" (A. Voegtle) lịch sử của con người xã hội? Người ta cho rằng: Kitô giáo chỉ mới khai sinh từ thời GH sơ khai chứ không phải từ thời Chúa Giêsu (W. G. Kuemmel), lý do rất đơn giản là vì chính Chúa Giêsu cũng chưa phải là một Kitô hữu mà vẫn còn là một tín đồ trung thành của Do Thái giáo (R. Bultmann) (3) . Nhưng sau đó, vấn đề này lại đẻ thêm nhiều vấn đề khác: Trước khi thắc mắc về GH cần phải thắc mắc về chính vị sáng lập GH: Ngài là ai, giáng sinh năm nào, tử nạn năm nào và hoạt động được bao lâu?

Những người đầu tiên đã khơi ra vấn nạn này là H. S. Reimarus (1694-1768), G. E. Lessing (1729-1781) rồi đến D. F. Strauss (1808-1874), J. Weiss (1863-1914). Cuộc tranh luận đã đạt đến cao điểm vào thế kỷ 19 nhưng đến đầu thế kỷ 20, A. Schweitzer (xem: Geschichte der Leben-Jesu-Forschung, xuất bản lần đầu năm 1909) đã mường tượng được sự thất bại của nỗ lực này. Đến thời R. Bultmann (Jesus, 1926), dường như ông muốn "bỏ cuộc" và không còn muốn bàn luận gì về Chúa Giêsu lịch sử nữa. Ông cho rằng không thể tìm về một Chúa Giêsu đích thực trong một quá khứ quá xa xôi, vì thế nên cấm nghiên cứu về đề tài này luôn cho gọn. G. Bornkamm trong cuốn sách xuất bản vào năm 1956 (Jesus von Nazareth) cũng cho rằng, không ai hiện nay còn khả năng viết lại lý lịch Chúa Giêsu nữa, những gì đã viết ra - theo ông - chỉ là sản phẩm của các nhà Thần học dệt thơ hay là sản phẩm của các nhà thơ nặn Thần học. Thế nhưng M. Dibelius (Jesus, 1939) vẫn hăng say tiếp tục trên con đường nghiên cứu của người xưa. Và sau này, còn có thêm E. Stauffer (1957) là người có lẽ nhiệt thành nhất trong việc này. Hiện nay, vẫn còn H. Conzelmann, G. Ebeling, E. Fuchs, E. Kaesemann, J. Blank, W. Trilling và mới đây J. Gnilka đã cho xuất bản tập khảo luận công phu về Chúa Giêsu dày 331 trang (xem: phần tài liệu tham khảo phía dưới). Mới nhất còn có một bài khảo cứu của J. Kremer, Wer war Jesus wirklich. Orientierungshilfe eines Bibelwissenschaftlers, trong tạp chí "Stimmen der Zeit" số tháng 9/1991, tr. 579-596.

Hiện nay, số lượng sách báo bàn về vấn đề này đã gia tăng khủng khiếp. Nhất là sau khi khoa khảo cổ khám phá ra hai "thư viện" tại Nag' Hammadi (cạnh sông Nil) vào năm 1945/46 và Qumran (4) vào năm 1947, người ta lại đua nhau viết tiếp và từng có ảo vọng cắt nghiã được hết những vấn nạn chung quanh con người Chúa Giêsu và giáo huấn của Ngài. Ngay cả các nhà Thần học Do Thái cũng bắt đầu lưu tâm tới Chúa Giêsu. Sch. Ben-Chorin gọi Ngài là "người anh em" (Bruder Jesus. Der Nazarener in juedischer Sicht. Muenchen (1.)1967). Rồi những người cộng sản hoặc vô thần cũng lao đầu vào nghiên cứu, để khám phá thêm "sự thật" về nhân vật này. Các nhà văn, nhà báo cũng bị cuốn hút và "lạc lối" vào lãnh vực này, viết nên những thiên tiểu thuyết tràng giang đại hải, mà vai chính là Giêsu. Thí dụ, K. F. Bahrdt đã xuất bản vào những năm 1784-1792 bộ "lý lịch Chúa Giêsu" dày 3.000 trang. K. H. Venturini đã xuất bản vào những năm 1800-1802 một bộ tương tự với 2.700 trang. Trong bộ "kiếm hiệp" này Venturini đã tiểu thuyết hóa "mối tình" giữa Chúa Giêsu và Maria thành Magdala. Cuốn phim "Cơn cám dỗ cuối cùng" (The last temptation of Christ) dài 164 phút của đạo diễn M. Scorsese mới đây (1988, USA) cũng chỉ là nhái lại chuyện cũ của người xưa. Những loại sách và phim ảnh hiện nay thuộc loại này vẫn còn nhan nhản trên thị trường thương mại. Tới nay đã có hơn 115 cuốn phim về cuộc đời Chúa Giêsu. Mới nhất phải kể đến cuốn phim "Giêsu thành Montréal" dài 119 phút của nhà đạo diễn D. Arcand (Canada) sản xuất năm 1989. Còn về sách báo, thì báo Le Monde, số ra ngày 13. 4. 1990, trong phần điểm sách năm qua, đã gọi năm 1989 là "année Jésus". Phần lớn các tác phẩm thuộc loại này thường dựa theo những "khám phá" mới trong ngành nghiên cứu (mà phần lớn vẫn còn là giả thuyết!) rồi phóng đại, tô màu cho thêm ăn khách. Trên thực tế, chúng ăn khách thật - nhiều cuốn bán chạy như tôm tươi (Bestseller) và mang về "nguồn lợi" khổng lồ cho kẻ viết - vì nhân tâm ngày càng đa nghi đối với các giáo huấn truyền thống của GH về Chúa Giêsu. Trong kỷ nguyên điện tử Chúa Giêsu không còn bị đóng đinh trên thập giá nữa, mà bị đóng đinh trong sách vở và phim ảnh tràn lan trên thị trường. Thực ra, các độc giả này muốn lột bỏ cái mà họ gọi là huyền thoại (mythos) về Chúa Giêsu, nhưng lại bước chân đi tìm một Giêsu trong tưởng tượng. Phần lớn những loại sách và phim ảnh này không có giá trị gì nhiều về khía cạnh khoa học, nhưng chỉ là những đứa con mơ mộng mang thánh hiệu Giêsu. Ở đây chúng ta không lưu ý tới những "sản phẩm" loại này, nhưng chỉ lưu ý tới những "kết quả" của hơn 200 năm "nghiên cứu đứng đắn" vừa qua, dựa trên nền tảng khoa học lịch sử. Theo H. Schlier (Tin Lành sau trở lại Công Giáo) nỗ lực này nhằm viết lên cuốn "Phúc Âm thứ 5" sau 4 Phúc Âm chính thức của GH. Còn theo A. Schweitzer, kết quả này là công đầu của nền Thần học tại Đức.

Trong bài này, đôi khi nếu có ra một vài giả thuyết "khác lạ" đối với niềm tin và kiến thức truyền thống, thì chỉ nhằm mở rộng biên cương của vấn đề theo nhu cầu của lý trí, không tất nhiên phản ảnh niềm tin của người viết cũng như bó buộc người đọc phải theo. Vả lại, đã gọi là "giả thuyết", thì bao lâu chưa chứng minh được là "thật", bấy lâu vẫn còn phải coi là "giả". Lẫn lộn giữa "giả" và "thực" sẽ gây thiệt hại. Thiệt hại cho mình, trước khi gây thiệt hại cho người khác. Vụ E. Drewermann hiện nay trong ngành Thần Học Đức là một điển hình trong nhiều trường hợp đã có từ xưa.

Sau hơn 2 thế kỷ với nhiều nỗ lực nghiên cứu, dù chưa (hoặc không bao giờ) đạt đến mức độ chắc chắn trăm phần trăm, nhưng công trình đó không hẳn là vô giá trị, vì nó đã cống hiến cho cho chúng ta một số kết quả tương đối chính xác về "lý lịch" của Chúa Giêsu như sau:

0.     CHÚA GIÊSU LÀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH SỬ HAY CHỈ LÀ HUYỀN THOẠI?
Vào thế kỷ 19 đã xẩy ra một cuộc tranh luận sôi nổi do việc đặt lại vấn đề: Chúa Giêsu có thực sự sống trên trái đất này không (nhân vật lịch sử) hay chỉ là hình ảnh thêu dệt của người xưa (nhân vật huyền thoại)? (xem: B. Bauer, Christus und die Caesaren. Tuebingen 1877).

Để biết về Chúa Giêsu, chúng ta căn cứ vào tất cả các nguồn tài liệu nói về Ngài hoặc có chút ít liên quan tới Ngài. Rất tiếc, như hầu hết các nhà sáng lập tôn giáo thời bấy giờ, Ngài không viết gì để lưu truyền lại cho chúng ta. Phúc Âm (PÂ) Thánh Gioan cho biết, chỉ có một lần Chúa Giêsu đã viết, nhưng Ngài lại viết trên mặt đất, mà chúng ta lại không biết chắc Ngài viết gì  trên đó! (8, 6. 8)
Nguồn tài liệu chính thức về Chúa Giêsu là các PÂ và các Thánh Thư trong Tân Ước (TƯ). Nhưng các nguồn tài liệu này lại được ghi lại sau khi Chúa Giêsu đã lìa đời mấy chục năm. Thánh Phaolô là người đầu tiên (thư Thess viết vào năm 50, thư 1 Cor viết vào khoảng năm 56) đã viết về Chúa Giêsu và giáo huấn của Ngài, nhưng chúng ta không chắc Phaolô có quen biết con người Giêsu bằng xương bằng thịt hay không, đồng thời trong các nguồn tài liệu do ngài cung cấp, ngài hoàn toàn không hề lưu ý tới "Chúa Giêsu lịch sử" mà chỉ lưu ý tới "Chúa Kitô" tử nạn và sống lại hiển vinh. Còn về các PÂ, dù Marcô là người đã khởi công viết PÂ (không phải là Matthêu như người xưa lầm tưởng), nhưng ngài cũng bắt đầu công việc này khá trễ, vào những năm 60-70. Hơn nữa, ngài không phải là môn đệ trực tiếp của Chúa Giêsu, mà chỉ là môn đệ của Thánh Phêrô. Các PÂ khác còn được viết trễ hơn: PÂ Thánh Matthêu được viết khoảng năm 80. PÂ Thánh Luca (môn đệ Phaolô) được viết vào khoảng năm 70-80. PÂ Thánh Gioan được viết vào những năm cuối the  kỷ thứ 1. Thêm vào đó, cũng nên biết, các PÂ không phải là những tác phẩm đã được viết "một mạch" cho xong, nhưng là kết quả của một cuộc "sưu tầm" qua nhiều thế hệ khác nhau: Lúc đầu PÂ chỉ là những bản văn được dùng trong Phụng Vụ, những bài Giáo Lý, những bài Giảng Thuyết... của GH sơ khai. Phần nổi bật, cổ kính nhất và được viết khá liên tục có lẽ là bài tường thuật về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, khi soạn lại như thế, các Thánh Sử không đặt nặng các chi tiết lịch sử. Chủ ý của các ngài không nhằm ghi lại lý lịch Chúa Giêsu cho bằng ghi lại những hoạt động và giáo huấn của Ngài. Các bài tường thuật đó không phải là những biên bản của cảnh sát, nhưng là chứng chỉ của lòng tin: lòng tin của các ngài và của GH sơ khai. Các ngài không phải chỉ muốn truyền bá điều các ngài đã thấy và nghe, nhưng còn muốn làm chứng cho những điều đó là thực. Truyền bá, mà không cần làm chứng gì thì tương đối dễ. Người ta có thể truyền bá một dễ dàng một triết lý, một ý thức hệ, một nhân sinh quan, một vũ trụ quan..., nếu không cần làm chứng cho chúng là thực. Nhưng trái lại, rất khó, khi cần phải làm chứng, nhất là khi phải trả giá bằng chính cái chết của mình: chết để ký tên và đóng dấu cho những điều mình nói. Và khi làm chứng như thế, các ngài cũng không lo làm chứng các chi tiết lịch sử, cho bằng làm chứng các chân lý cứu độ. Nhưng dù các ngài có chú trọng tới các chi tiết lịch sử đó chăng nữa, chúng ta cũng nên biết thêm rằng, quan niệm "lịch sử" cũng như cách trình bày của người xưa không thể "khoa học" và chính xác như ngày nay, khi viết sử. Lấy tiêu chuẩn thời nay mà phê bình người xưa có phải là khe khắt quá hay không (5) ?

Vì những lý do trên đây, nên khi đọc PÂ chúng ta thường thấy nhan nhản những chi tiết về không gian và thời gian khá mơ hồ, như: "lúc ấy", "khi đó", "khi", "và khi các Ngài đi tiếp", "khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng trên bờ hồ", "sau đó Ngài lại đi tiếp" hoặc những lối diễn tả tương tự. Nếu xét theo tiêu chuẩn của sử học tân thời ngày nay, người ta có thể nói được rằng: không có một niên hiệu nào được ghi lại trong TƯ đáng được kể là chắc chắn 100 % (W. Trilling). W. G. Kuemmel (Einfuehrung in das NT) còn cho rằng ngay cả Thánh Marcô, vị thánh sử đầu tiên, cũng không có một khái niệm gì về địa hình, địa lý của vùng Palestina thời Chúa Giêsu.

Dầu thế, chúng ta cũng không được phép kết luận, TƯ chỉ là sản phẩm của tưởng tượng, không gói ghém một giá trị lịch sử nào. Thực ra, nếu để ý khi đọc, chúng ta sẽ nhận ra ngay những nét đại cương về một bối cảnh lịch sử của thời xa xưa vẫn còn rất sinh động trong đó: Những nhân vật lịch sử như vua Hêrôđê Cả và con của ông là Hêrôđê Antipas, vị quan tổng trấn Philatô... thay phiên nhau xuất hiện trên chính trường. Trong xã hội ấy cũng có những phe phái tôn giáo hoặc đảng phái chính trị phức tạp như Sađuxê, Pharisiêu, nhóm Cuồng Nhiệt (Zelotai), nhóm tay chân Hêrôđê (Mc 3, 6; 12, 13t)... Ngoài ra, còn có cả Hội đồng Tôn giáo tối cao, có đền thờ và việc phượng tự; có sự khác biệt về não trạng giữa người dân miền Galilêa (miền Bắc) và Giuđêa (miền Nam); có thuế đền thờ và thuế cho người Rôma... Những chi tiết ấy tuy nhỏ nhặt, nhưng cũng đủ vẽ nên những nét chấm phá khá chân thực về miền Palestina, dưới quyền bảo hộ của đế quốc Roma thời đó. Bối cảnh ấy rất phức tạp, có một không gian và một thời gian nhất định, không thể là sản phẩm của tưởng tượng, nhưng là dấu vết lịch sử rất xác thực còn lưu lại trong đó.

Huấn thị của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh Thánh phổ biến ngày 21. 4. 1964 cũng đã lưu ý tới giá trị lịch sử của PÂ như sau: "Để hướng dẫn công minh về giá trị xác thực của các truyền thống PÂ, nhà chú giải phải lưu tâm tới 3 giai đoạn lưu truyền (tria tempora traditionis), qua ba giai đoạn đó mà giáo huấn và cuộc đời Chúa Giêsu đã được lưu truyền lại cho chúng ta" (6, 2). Ba giai đoạn đó là: (1) giáo huấn và các sinh hoạt chung giữa Chúa Giêsu với các môn đệ Ngài, (2) giáo huấn và những mẩu chuyện đó được lưu truyền và thành hình dần dần trong GH sơ khai và sau này (3) mới được các thánh sử lo xếp đặt và ghi lại.

Ngoài ra, khoa khảo cổ cũng đã góp công không nhỏ trong việc chứng minh cho sự xác thực của PÂ. Xin đan cử một thí dụ: J. Jeremias (xem: Die Wieder- entdeckung von Bethesda. Johannes 5, 2. Goettingen 1949) cho rằng cái hồ nước được nhắc tới trong Gio 5, 2 hoàn toàn giống với cái hồ Bethesda mà khoa khảo cổ đã khám phá, giúp xác định được nơi chốn Chúa Giêsu đã làm phép lạ ngày xưa. Đó là một trong những đóng góp không thể bỏ qua của ngành này.

Thêm vào đó, người ta còn lưu ý tới cả những nguồn tài liệu ngoài PÂ. Thí dụ, J. Jeremias (xem: Die unbekannte Jesu Worte. Guetersloh (4.) 1965) đã sưu tầm những lời tương truyền của Chúa Giêsu không thấy ghi lại trong TƯ, nhưng trong các nền văn hóa cổ xưa khác, đem ra phân tích rất tỉ mỉ, giúp người đọc hiểu thêm về cá nhân và giáo huấn của Ngài.

Ngoài ra, trong sử sách và văn chương Do thái cũng như Roma thời đó, ngườita cũng thấy - dù không nhiều như chúng ta mong ước - những "dấu chân" lịch sử của Chúa Giêsu như sau:
Trong một bản tường trình về việc thành Roma bị thiêu hủy dưới thời Neron, sau khi cho biết về mối thù giữa bạo chúa Neron và các tín hữu Roma, Tacitus - một viên chức cao cấp và là nghị viên vào năm 97 s. CN. - còn viết thêm những giòng này (khoảng năm 116/11): "Auctor nominis eius (sc. Kitô hữu) Christus Tiberio imperiante per procuratorem Pontium Pilatum supplicio affectus erat" (Tên này [nghiã là: Kitô hữu] bắt nguồn từ ông Kitô, là người bị quan tổng trấn Pontiô Philatô xử tử hình dưới thời Tiberius) (Ann. 15, 44).
Những giòng ngắn ngủi này được coi là lời chứng tích khách quan nhất, chắc chắn nhất đồng thời cũng hùng hồn nhất về con người lịch sử Chúa Giêsu do sử sách người đời để lại.

Thêm vào đó, người ta cũng ưa nhắc tới đoạn văn của sử gia Sueton trong cuốn tiểu sử của Hoàng Đế Claudius "Vita Claudii" 25, 4 như sau: "(Claudius) Judaeos impulsore Chresto assidue tumultuantes Roma expulit" (Claudius đã trục xuất những người Do thái khỏi Roma, vì họ bị ông Kitô khích động mà làm loạn). Tuy nhiên đoạn văn này không có giá trị nhiều cho đề tài của chúng ta, vì rất có thể ông Kitô được nhắc đến ở đây chưa hẳn là Chúa Giêsu Kitô, mà rất có thể chỉ là một ông Kitô nào đó. Có điều chi tiết này hợp với cuộc nổi loạn được ghi lại trong Tông đồ Công vụ 18, 2.

Sử gia Do thái Josephus Flavius trong Antiquitates Judaeorum 20, 20 cũng cho biết Thày cả Thượng phẩm Annanos (Anna II) đã xử tử hình Thánh Giacôbê, là "anh em của ông Giêsu, được
gọi là Kitô" vào năm 62. Chỗ khác (Ant. 18, 3, 3) ông còn cho biết thêm: "Ông Giêsu sống vào thời này, nếu coi ông là người thì là một người thông thái. Ông là người đã làm nhiều phép lạ, là thầy dạy những ai vui chấp nhận chân lý. Ông đã lôi cuốn được nhiều người Do thái và người Hy hóa (Helléniste). Rồi khi ông bị Philatô phạt đóng đinh vào thập giá vì những lời tố cáo của các vị đứng đầu trong chúng ta, thì những người lúc trước đã yêu ông vẫn không bỏ cuộc. Vì sau ba ngày ông lại hiện ra với họ như người còn sống, theo lời những tiên tri của Chúa đã nói về điều này. Ngoài ra còn hàng ngàn những điều lạ lùng khác về ông nữa. Cho tới nay, giòng giống những người được gọi là Kitô hữu đã tin theo ông vẫn không giảm sút." Đây là một đoạn văn quá minh bạch. Nhưng cũng vì quá minh bạch nên có nhiều người lại nghi ngờ giá trị lịch sử của nó. Họ cho rằng, một là GH sơ khai đã thêm cả đoạn văn này vào bộ sử, hai là ít nhất GH sơ khai cũng đã thêm thắt vào đoạn văn nguyên thủy của nhà sử gia tên tuổi nói trên.

Các bản văn tư tế trong bộ Talmud cũng nhắc tới Chúa Giêsu và cho biết Ngài thường công kích việc giữ luật và hay làm phép lạ. Có chỗ mang nặng tính chất bài (Kitô) giáo, như khi cho rằng Chúa Giêsu là con ngoại hôn, là hạng phù thủy, hoặc mang tính chất hộ (Do thái) giáo, khi cho rằng việc Chúa Giêsu bị tử hình là điều hoàn toàn hợp pháp... Sau này, còn có "Toledot Jesu" (Truyện ông Giêsu) gồm những truyện hoàn toàn có tính cách bài (Kitô) giáo.

Tất cả những tài liệu trên đây - hoặc tích cực hoặc tiêu cực - đủ chứng minh
Chúa Giêsu là một nhân vật có thực, Ngài là người Do thái, sống và hoạt động
tại vùng Palestina trước chúng ta 20 thế kỷ. Ngành nghiên cứu hiện nay cũng đồng thanh công nhận, những giáo huấn xưa nay của GH về Chúa Giêsu đều có nền tảng vững chắc, bắt nguồn từ cuộc đời và hoạt động của Chúa Giêsu trên trần thế, chứ không phải là chuyện huyền thoại. Thực ra, nếu GH sơ khai đã huyền thoại hóa nhân vật Giêsu cũng như giáo huấn của Ngài, thì GH đó đã không để sót lại những chi tiết tiêu cực trong TƯ như việc Gioan TG làm phép rửa cho Chúa, quê hương của Ngài sẽ không phải là Nazareth, Giuđa cũng không thể nộp Ngài... Nhất là GH đó đã không để cho Ngài chết tất tưởi trên thánh giá, nhưng phải tìm một hình thức "Happy-End" nào đó, mà lý trí con người tạm có thể chấp nhận được, cũng không thể quá "trừu tượng, mơ hồ" như việc thăng thiên. Đó là những chi tiết hoàn toàn "thất lợi" cho việc truyền giáo ngay từ lúc ban đầu.

Để châm biếm những ai còn nghi ngờ Chúa Giêsu có phải là một nhân vật lịch sử hay không, người ta thường kể lại giai thoại sau đây: Khi Napoleon hỏi nhỏ C. M. Wieland rằng, không biết Chúa Giêsu có sống thực hay không, Wieland đã tâu lại với vua rằng: "Thưa hoàng thượng, hạ thần biết có những kẻ điên khùng vẫn thường hồ nghi như thế. Nhưng theo hạ thần, hồ nghi như thế cũng chẳng khác nào hồ nghi, liệu Julius Cesar có sống thực hay không, hay là hồ nghi, liệu chính hoàng thượng đây có đang sống thực hay không. Ai còn hồ nghi như thế, thì đúng là hạng dốt nát!"
Hiện nay, không ai còn đặt lại vấn đề ngây thơ này nữa. Chúa Giêsu được công nhận là một nhân vật đã sống thực trong giòng lịch sử nhân loại.
I. NGUỒN GỐC VÀ THÂN THẾ CHÚA GIÊSU
1.     Năm sinh
Chúa Giêsu có tên thật là J.hosua (nếu là tiếng Do Thái) hoặc Jesua hoặc Jesu (nếu là tiếng Aramê). Tên này có nghiã là: "Giavê là sự cứu độ" hay "Giavê ban ơn cứu độ". Giêsu không phải là một tên gọi đặc biệt và mới lạ của riêng Chúa Giêsu, nhưng là tên gọi khá thông dụng và rất được ưa chuộng vào thời đó (6). Cha Mẹ Ngài có tên (theo đúng nguyên ngữ) là Joses và Mirjam.

Mt 2, 1 cho biết: Ngài sinh ra tại Belem, xứ Giuđêa dưới thời vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là con của Antipater và Kypros, được chánh quyền Roma phong vương cho làm vua xứ Giuđêa vào khoảng cuối năm 40 trước công nguyên (tr. CN), nhưng mãi 3 năm sau ông mới được lên ngôi. Hêrôđê băng hà vào năm 750 "ab urbe condita" (năm 750 sau khi thành lập thành phố Roma). Năm 1 (lúc Chúa giáng sinh) theo cách tính của chúng ta hiện nay là năm 754 "ab urbe condita".

Vì Chúa Giêsu giáng sinh lúc Hêrôđê còn đang sống, cho nên Ngài phải sinh vào những năm từ 7 tới 4 trước (!) niên lịch hiện nay mới đúng. Đó là một lầm lỗi trong cách tính niên lịch ngay từ lúc đầu. Chúng ta biết, cho tới thế kỷ thứ 6 nhân loại vẫn chưa lấy Chúa Giêsu làm "mốc" cho cách tính niên lịch như hiện nay. Mãi tới năm 523-525 Đức Giáo Hoàng Gioan I mới truyền cho tu sĩ Dionysius ở Roma, tự xưng là Dionysius Exiguus (kẻ thấp hèn), tính lại ngày lễ Phục sinh của nghi thức Alexandria mà xác định ngày lễ này cho bên GH Roma. Năm 525 Dionysius cho xuất bản cuốn "Liber de paschate". Trong đó, ngài đã so sánh ba dữ kiện sau đây: Lc 3, 23, năm Hoàng đế Diokletian lên ngôi và năm "ab urbe condita". Theo Lc 3, 23 cho biết, Chúa bắt đầu hoạt động công khai lúc Ngài khoảng 30 tuổi. Niên hiệu Hoàng đế Dikletian lên ngôi là 29. 8. 284 tr. CN. Nếu căn cứ theo ba dữ kiện nêu trên thì theo ngài, năm 1 (lúc Chúa sinh ra) phải là năm 754 "ab urbe condita". Sau hơn 500 năm mới tính lại từ đầu, nên
lệch lạc một số năm như thế là điều dễ hiểu và có thể tha thứ được.

Ngoài ra, chúng ta cũng biết thêm chi tiết, có lẽ lúc Chúa Giêsu giáng sinh cũng là lúc Thầy cả Thượng phẩm Simon Ben Boethos (khoảng năm 24-5 tr. CN) còn tại chức tại Giêrusalem.

Theo Lc 2, 1-3 cho biết lúc Chúa sinh ra, cũng là lúc Hoàng đế Augustus đã ra lệnh cho kiểm tra dân số lần đầu tiên, dưới thời Quirinus là tổng trấn xứ Syria. Cho tới nay người ta vẫn chưa biết chính xác về một cuộc kiểm tra nào như thế. Rất có thể, cuộc kiểm này đã xẩy ra vào năm 8 tr. CN là năm mối bang giao giữa vua Hêrôđê và chánh quyền Roma bị sứt mẻ. Hơn nữa, một vị quan Quirinus nào đó chỉ có thể là tổng trấn xứ Syria vào những năm từ 12 tới 9/8 tr. CN mà thôi, vì từ năm 9-4 tr. CN (năm Hêrôđê băng hà) chúng ta đã có danh tánh chính xác của hai vị tổng trấn là Sentius Saturninus và P.Quintilius Varus. Theo Giáo Phụ Tertulien, không phải Quirinus nhưng là Sentius Saturninus đã cho tổ chức cuộc kiểm tra mà Lc 2, 2 đã đề cập tới vào những năm 9/8 tới 6 tr. CN (Adversus Marcionem IV, 9). Chúng ta không biết, Tertulien đã xác quyết như thế, vì biết rõ về sự kiện này, hay chỉ muốn "điều chỉnh" lại tên vị tổng trấn ấy sao cho hợp với năm 6 tr. CN trong sử sách người đời mà thôi.

Sử gia Do thái Josephus Flavius (Ant. 18, 1 tt) còn cho biết, ở Syria thời đó cũng có một vị tổng trấn tên là Quirinus đã đứng ra tổ chức một cuộc kiểm tra, nhưng cuộc kiểm tra này lại được tổ chức vào năm 6 sau CN (s. CN) và chỉ kiểm tra miền Giuđêa thôi, chứ không kiểm tra cả miền Galilêa!

Vì thế có tác giả cho rằng: một là không phải Quirinus, nhưng là một tổng trấn nào đó đã đứng ra lo vụ kiểm tra này; hai là Thánh sử Luca đã lẫn lộn cuộc kiểm tra của Quirinus vào năm 6 s. CN với một cuộc kiểm tra nào đó vào khoảng năm 4 tr. CN mà hiện nay chúng ta chưa biết được. Mt 2, 1-12 còn cho biết có một chòm sao lạ đã xuất hiện vào lúc Chúa sinh ra. Chi tiết này đã gây tò mò cho một số người không ít. Vào năm 1606 nhà thiên văn J. Kepler trong cuốn sách của ông nhan đề "De Jesu Christi salvatoris nostri vero anno natalitio" đã cho rằng năm sinh của Chúa phải là năm 7 tr. CN. Vì theo cách tính của ông, vào năm này hành tinh Jupiter và hành tinh Saturn đã giao thoa trong chòm sao Ngư đẩu (con cá). Nếu theo lối giải thích của chiêm tinh học cổ thời, thì Jupiter là ngôi sao của vũ trụ. Jupiter là vì sao vua. Còn Saturn thì đối với người Babylon là ngôi sao chỉ hướng "amuru", nghiã là xứ Syria; còn theo cách cắt nghiã của nền văn hóa Do Thái đã bị Hy-hóa thì Saturn là ngôi sao của dân Do thái. Còn chòm sao Ngư đẩu là chòm sao của thời cánh chung. Như thế, khi thấy hiện tượng trên, Ba vua (Ba nhà chiêm tinh) trong Lc 2 đã hiểu ngay là: Ở xứ Syria, hay rõ hơn tại
miền Do thái (Do thái thời bảo hộ Roma thuộc vùng hành chánh Syria- Palestina) một vị vua thời cánh chung vừa giáng sinh (V, 74tt) (7) Ngoài ra, vào năm 1925 các nhà khảo cổ cũng tìm thấy ở Sippar cạnh dòng Euphrat một bảng đất nung có từ thế kỷ thứ 3 tr. CN, trên bảng đó có ghi lại việc quan sát một ngôi sao xuất hiện vào năm 7 tr. CN.

Nếu ngôi sao đó đã thực sự xuất hiện trên nền trời, thì một là ngôi sao ấy đã xuất hiện vào khoảng tháng 12 năm 7 tr. CN, khi trời chiều vừa tối. Nhưng nếu thế, thì lúc đó lại không có mặt vua Hêrôđê ở Giêrusalem, vì theo thông lệ vào mùa Đông nhà vua thường về nghỉ tại Jericho. Tuy nhiên, thông lệ này không hẳn là một trở ngại lớn cho vấn đề của chúng ta, vì cũng có thể vào dịp lễ Cung hiến Đền thờ nhà vua lại trở về thủ đô để dự lễ. Hai là ngôi sao ấy đã xuất hiện vào khoảng cuối tháng 9 và đầu tháng 10, lúc bầu trời đã tối mịt. Nhưng nếu thế, đoàn tùy tùng của "Ba vua" sẽ khó có thể hành trình 6 tuần lễ liên tiếp trong sa mạc, vì lúc đó nhiệt độ còn quá cao. Kết luận, ngôi sao ấy phải xuất hiện vào tháng 12 mới là có lý.

Lc 2, 1-20 còn cho biết, lúc Chúa sinh ra cũng là các mục đồng và đoàn vật còn đang nghỉ đêm ngoài trời. Chi tiết này cho phép suy ra, nghiã là lúc đó khí trời còn tương đối ấm áp và khi cánh đồng vẫn còn đủ cỏ cho súc vật ăn. Điểm thứ nhất: Trên thực tế, ở Bêlem khí trời chỉ ấm áp về đêm trong khoảng thời gian từ tháng 3 tới tháng 10 mà thôi, những tháng còn lại trời khá lạnh, không thể nghỉ đêm ngoài trời được. Điểm thứ hai: Vào mùa Hạ, vì trời nắng gắt nên cánh đồng Belem cũng thường cháy trụi cỏ. Tình trạng này kéo dài cho tới khi những giọt mưa đầu mùa Thu trở về, lúc đó đồng cỏ mới có thể dần dần hồi sinh. Như thế, đoàn vật chỉ ở ngoài đồng trong khoảng tháng 3 và tháng 4 mà thôi. Kết luận, Chúa Giêsu cũng phải sinh ra trong khoảng thời gian này, mới hợp với chi tiết Lc 2 đã cho biết như trên.

Nhưng tại sao chúng ta lại mừng lễ Chúa giáng sinh vào đêm 24 rạng 25 tháng 12 như hiện nay (8) ? Đêm này bắt nguồn từ đâu? Thưa, đêm này bắt nguồn từ một dịp lễ của người Roma. Vào mùa Đông, đêm 24. 12 là đêm bắt đầu ngắn lại và ngày bắt đầu dài ra, nên từ năm 275 trở đi người Roma đã dựa vào hiện tượng thiên nhiên này và chọn đêm nay mà mừng lễ Thần mặt trời của họ và gọi đêm nay là đêm "natalis solis invicti" (sinh nhật của mặt trời bách thắng). Đến năm 311, dưới thời Hoàng đế Constantin, Kitô giáo được tự do bành trướng, nên số tín hữu tại Roma cứ tăng dần. Dù đã trở lại đạo, nhưng những tín hữu này vẫn còn tiếp tục mừng lễ "natalis solis invicti" chung với các đồng hương của họ như trước. Rồi sau này, họ đã biến lễ "sinh nhật của mặt trời bách thắng" thành lễ "sinh nhật của mặt trời công chính". Mặt trời công chính ơ  đây được hiểu là Chúa Kitô theo tinh thần câu Mal 3, 20 trong Kinh Thánh. Chúng ta không biết chính xác, những Kitô hữu Rôma này đã biến lễ của người Rôma thành lễ giáng sinh của Chúa vào năm nào, chỉ đoán được trong khoảng thời gian sau năm 311 và trước năm 336.
2.     Nơi sinh
Mt 2, 1 và Lc 2, 4 cho biết Chúa sinh ra tại làng Belem, thuộc xứ Giuđêa (miền Nam) còn Nazareth (miền Bắc) là quê hương của cha mẹ Ngài. Nhưng nếu theo cách diễn tả của Mt, thì người đọc PÂ có cảm tưởng là quê hương của thánh Giuse phải là Belem hay ít nhất cũng nằm trong vùng Giuđêa mới phải. Thánh Giuse đã đưa gia đình về Nazareth tỵ nạn, chỉ vì sợ Archelaus (Mt 2, 22) mới lên ngôi, sau khi Hêrôđê băng hà.

Còn theo Lc 2, 26t thì quê hương của Thánh Giuse và Đức Mẹ lại là Nazareth, miền Galilêa. Các Ngài về Belem chỉ là để kiểm tra dân số. Ngoài ra, lúc sinh thời Chúa Giêsu thường được gọi là người thành Nazareth (Nazarenos hay Nasarenos) như trong Mc 1, 24; 10, 47; 14, 67; 16, 6. Có khi Ngài cũng được gọi là "Nazoraios" như trong Mt 2, 23; 26, 71; Lc 18, 37; Gio 18, 5. 7; 19, 19. Thành phố Nazareth còn được gọi là quê cha (patris) của Ngài (Mc 6, 1 ss). Căn cứ vào những chứng cớ trên đây một số tác giả đã cho rằng: Chúa Giêsu không phải chỉ lớn lên tại Nazareth mà còn sinh ra tại đó. Theo họ, truyền thống Chúa Giêsu sinh ra tại Belem đã bị khuynh hướng Thần học thời GH sơ khai "sửa đổi" cho phù hợp với Mich 5, 1. Theo lời tiên tri này, Đấng Cứu thế phải sinh ra tại Belem, là quê hương của vua David (II, 52t). Tuy nhiên, vương cung thánh đường Giáng Sinh tại Bêlem hiện nay đã được xây cất ngay từ năm 325 dưới thời Hoàng đế Constantin, để kính nhớ nơi Chúa sinh ra. Đây là nhà thờ cổ kính nhất của Kitô giáo còn sót lại cho tới ngày nay.

Nazareth là một thành phố nhỏ nằm về phía Tây hồ Gennesareth (có lẽ là tên
mới của hồ Kinnereth trong Dân số 34, 11; theo Gio 6, 1; 21, 1 cũng gọi là hồ
Tiberias) và cách hồ này khoảng 25 km đường chim bay. Tên Nazareth chưa một lần được nhắc đến trong Cựu ước. Sử gia Joseph Flavius cũng không hề nhắc tới thành phố này. Gio 1, 46 cho biết Nazareth là một thành phố bị khinh rẻ, nằm trong miền Galilêa chẳng có gì đáng lưu ý, ngoài những đám quân phản loạn. Xuất xứ của Chúa Giêsu tại thành này - như trên đã nói - là một trở ngại lớn cho công cuộc truyền giáo của GH sơ khai, vì đối với người Do thái Đấng Messia không thể xuất thân tại vùng này được.
3.     Học vấn và nghề nghiệp
Trong TƯ Chúa Giêsu thường được gọi là Rabbi (tiếng Do Thái: Mc 9, 5; 10, 51; 11, 21; 14, 45 - Mt 23, 7. 8; 26, 25. 49. - Gio 1, 39. 50; 3, 2; 4, 31; 6, 25; 9, 2; 11, 8) hoặc Rabbuni (tiếng Aramê: Mc 10, 51; Gio 20, 16). Bản dịch Hy Lạp là "didáskalos" (tạm dịch: thầy dạy, sư phụ). Tước hiệu này vào thời đó chưa được dùng chính thức để chỉ những thầy Tư tế trong đạo Do thái, nhưng còn là một kiểu xưng hô lịch sự rất phổ thông của người đương thời. Có lẽ tương tự như người dân miền Nam Việt Nam ngày xưa vẫn thường gọi những người phong nhã là thầy. Từ thế kỷ thứ nhất trở đi danh xưng này mới được dùng chính thức để chỉ những vị Tư tế như hiện nay. Vì thế, không thể căn cứ vào tước hiệu này mà kết luận, Chúa Giêsu đã đi học để làm Rabbi. Có lẽ Ngài chỉ là một thường dân vào thời đó.

Một truyền thuyết Tư tế Do thái lại cho rằng, Chúa Giêsu là học trò của Jehoschua ben Perachja vào thuở đó. Nhưng truyền thuyết này không đứng vững, vì nếu thế Chúa Giêsu phải sống dưới thời vua Jannaj mới đúng. Ngoài ra, theo Gio 7, 15 dân chúng thời đó cũng thường thắc mắc, tại sao Chúa không đi học mà vẫn am tường Kinh Thánh như vậy.

Dù không chính thức hấp thụ một nền học vấn, nhưng nếu căn cứ theo giáo huấn và những mẩu đối thoại trong PÂ, người ta có thể kết luận rằng Chúa Giêsu có một kiến thức về Do thái giáo còn cao hơn cả Thánh Phaolô, là người vốn được học hành đến nơi đến chốn, dưới chân sư phụ Gamaliel (Tđcv 22,3) rất nổi tiếng vào thời đó, rồi sau này đã trở thành vị tông đồ "trí thức" nhất của Chúa Giêsu.

Nhiều lần PÂ cũng kể lại Chúa Giêsu vào Hội đường, đọc Kinh Thánh rồi giảng dạy dân chúng. Người ta không rõ, Ngài có dịch Kinh Thánh từ tiếng Do thái cổ (chính thức) ra tiếng Aramê thông dụng thời bấy giờ, rồi giảng dạy dân chúng hay là Ngài chỉ nhớ một đoạn Kinh Thánh nào quen thuộc, rồi đem ra cắt nghiã và giảng dạy dân chúng mà thôi (III, 767). Ngài rất thông thạo các Thánh Vịnh và có lẽ cả sách tiên tri Isaia nữa.

Từ khi khoa khảo cổ phát hiện nhiều di tích tại vùng Palestina, đặc biệt tại vùng Biển Chết, người ta mới khám phá ra rằng ngày xưa tại vùng này dân chúng đã sử dụng nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau như tiếng Do thái, Aramê và Hy lạp, gần giống như ngày nay: tiếng Do thái, Ả rập và Anh ngữ. Có lẽ Chúa Giêsu đã nói và giảng dạy bằng tiếng Aramê. Trước khi PÂ thành hình những lời nói và giáo huấn của Ngài đã được dịch sang tiếng Hy lạp. Trong PÂ ngày nay vẫn còn sót lại một vài tiếng Aramê thoát ra từ miệng Ngài như: Abba (Mc 14, 36), Effata ('etpatha: Mc 7, 34), Eloi, Eloi, lema sabachtani (Ilăh: Mc 15, 34).

Có thể nói, tiếng Hy Lạp thời đó cũng thông dụng như tiếng Anh bây giờ. Gio 19, 20 cho biết, bản án treo trên đầu thánh giá Chúa được viết bằng 3 thứ tiếng: Do Thái là tiếng bản xứ, La Tinh là tiếng bảo hộ và Hy Lạp là tiếng thông dụng nhiều người biết. Vì thế, có tác giả cho rằng rất có thể Chúa Giêsu cũng thông hiểu cả tiếng Hy Lạp. Thời đó ai thông hiểu tiếng Hy Lạp, thì được xếp vào thành phần trí thức, giống như những ai thông hiểu chữ Nho trong xã hội Việt Nam xưa cũng như những ai thông hiểu tiếng La tinh trong xã hội Trung cổ tại Âu châu.

Những bài giảng của Ngài thường không phải là những bài ứng khẩu theo hoàn cảnh, nhưng là những bài đã được suy nghĩ và dọn trước khá cẩn thận. Vì nếu đem dịch ngược  những bản văn PÂ còn lưu truyền bằng tiếng Hy Lạp ra tiếng Aramê, chúng ta sẽ thấy những dấu vết còn sót lại qua các hình thức đối ngẫu, song song, phản đề, có vần điệu... Trong cách giảng dạy Ngài thường dùng ngụ ngôn, tuy nhiên hình thức này không phải là sáng kiến riêng của Ngài, nhưng là một hình thức khá thông dụng và rất được ưa chuộng ơ  Phương Đông thời bấy giờ. Bài giảng của Ngài thường là chất liệu mở đầu hoặc cũng có thể là kết quả của các cuộc đối thoại với dân chúng hoặc với môn đệ Ngài. Ngài thường giảng đi giảng lại một đề tài, đến độ không phải chỉ các môn đệ theo Ngài mà ngay cả dân chúng cũng thuộc lòng để có thể tiếp tục kể lại cho những người chưa có dịp nghe qua. Đặc biệt, khi nói về Thiên Chúa Ngài thường dùng thể thụ động thần linh (passivum divinum) như thói quen "kỵ húy" trong Cựu Ước (VIII, 32).
Trước khi ra hoạt động công khai, Chúa Giêsu đã hành nghề "tékton" là nghề của Thánh Giuse. Chúng ta thường dịch chữ đó là thợ mộc. Nhưng thực ra chữ "tékton" bao quát khá nhiều việc khác nhau như làm cầu cống, làm guồng nước, xây nhà, làm cửa, sửa yên ngựa... như một bản văn Hy Lạp bằng papyrus thời đó cho biết. Con nối nghiệp cha là chuyện thông thường nơi người Do Thái thời đó. Cha có bổn phận phải dạy nghề cho con, như 1 câu trong văn chương Tư tế cho biết như sau: "Ai không dạy nghề cho con, là dạy nó đi trộm cướp" (bQid 30b) (VIII, 77).

Ngoài ra, trong PÂ không hề nói tới - dù trực tiếp hay gián tiếp - hiền thê của Chúa Giêsu, nên sự kiện Ngài đã sống độc thân là một sự thực lịch sử không thể nghi ngờ được. Theo thiển ý, nếu Ngài đã lập gia đình (hoặc có thêm anh chị em ruột thịt, như nhiều nhà Thần Học Tin Lành, đôi khi cả Công Giáo (!) chủ trương), thì khi trên thánh giá, Ngài đã không trao Đức Mẹ cho người môn đệ yêu dấu. Chi tiết đó hoàn toàn trái ngược với tâm tình gia đình Á Đông. Đó là điểm tâm lý mà nền Thần Học Tây Phương có lẽ chưa hiểu nổi. Mối tình giữa Maria thành Magdala và Chúa Giêsu chỉ là sản phẩm "tiểu thuyết hóa", hoàn toàn không có một chút nền tảng nào trong TƯ.

Nếu tóm lược cuộc đời niên thiếu của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ có được những điểm chính sau đây:
(1) Truyền tin cho Đức Mẹ: tháng 6/7 năm 8 tr. CN.
(2) Đức Mẹ đi viếng bà Thánh Elisabeth: tháng 6/7 năm 8 tr. CN.
(3) Đức Mẹ trở về Nazareth: tháng 9/10 năm 8 tr. CN.
(4) Về Belem kiểm tra dân số: tháng 2/3 năm 7 tr. CN. (Đường đi mất 4 ngày)
(5) Chúa Giêsu giáng sinh: tháng 3/4 năm 7 tr. CN.
(6) Chúa chịu cắt bì: 8 ngày sau giáng sinh.
(7) Dâng Chúa vào đền thờ: 4/5 năm 7 tr. CN.
(8) "Ba Vua" tới thờ lạy: đầu tháng 12 năm 7 tr. CN. (sớm nhất là cuối tháng 9 năm 7 tr. CN.)
(9) Trốn sang Ai Cập: giữa tháng 12 năm 7 và đầu năm 6 tr. CN, có lẽ theo con đường ngắn nhất qua ngả Askalon, đi dọc theo bờ biển mà tới bình nguyên sông Nil, nơi đã có nhiều người Do thái đến lập cư.
(10)        Thảm sát các trẻ em tại Belem: Đầu năm 6 tr. CN.
(11)        Vua Hêrôđê băng hà: tháng 3 năm 4 tr. CN.
(12)        Trở về Nazareth: Cuối Hè hay mùa Thu năm 4 tr. CN.
(13)        Lên Đền Thánh lúc 12 tuổi: năm 6 s. CN. (IV, 289)
II. CUỘC ĐỜI CÔNG KHAI CỦA CHÚA GIÊSU
Cuộc đời công khai của Chúa có thể chia làm 2 giai đoạn: (1) giai đoạn thành công lúc ban đầu, thường được gọi là "Mùa Xuân Galilêa" tương đối ngắn ngủi và (2) giai đoạn bị tẩy chay vào lúc cuối đời. Lc 9, 51 cho chúng ta thấy rõ khúc quanh lịch sử đó: "Vì giờ hiến thân đã điểm, nên Ngài đã can đảm lên thành Giêrusalem."
1.     Năm khởi đầu hoạt động
Lc 3, 23 cho biết, Chúa Giêsu bắt đầu hoạt động công khai lúc Ngài "khoảng 30  tuổi". Số tuổi đó có chính xác không? Chúng ta chỉ biết, con số 30 này rất thường gặp thấy trong Kinh Thánh: Giuse ra mắt Pharaô, vua Ai Cập, lúc ông 30 tuổi (Stk 41. 46); David được xức dầu phong vương, lúc ông cũng vừa 30 tuổi (2 Sam 5. 4); Ezekiel được gọi làm tiên tri cũng hồi 30 tuổi. Cho nên có lẽ đây chỉ là con số biểu tượng, tương tự như quan niệm "tam thập như lập" của người Á Đông. 30 là số tuổi lý tưởng để lập thân. Vì thế, E. Stauffer kết luận, chi tiết Lc 3, 23 cho biết, không phải là chi tiết lịch sử đáng tin cậy. Ngoài ra, Lc 3, 23 chỉ nói "khoảng" mà không xác quyết là 30 tuổi tròn.
Trước khi ra hoạt động, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa với Thánh Gioan Tẩy Giả (TG). Đó là điều khá chắc chắn. Thánh Gioan TG là một nhân vật lịch sử có thực, không thể nghi ngờ, sử gia Josephus Flavius cũng nhắc tới những hoạt động của ngài. Lc 3, 1 đã để lại cho chúng ta một chi tiết lịch sử (có thể coi là chắc chắn nhất trong các chi tiết trong PÂ), khi cho biết Thánh Gioan TG đã khởi sự hoạt động vào năm thứ 15 thời Hoàng Đế Tiberius. Chúng ta được biết, Augustus băng hà ngày 19. 8. 14 s. CN. Như thế, năm thứ 15 thời Hoàng Đế Tiberius hoặc là nằm trong khoảng thời gian từ 19. 8. 28 tới 18. 8. 29 s. CN, nếu theo cách tính của Roma; hoặc là nằm trong khoảng thời gian từ 1. 10. 27 tới 30. 9. 28, nếu theo cách tính của Syria. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều tác giả, cách tính theo Syria có lẽ hợp lý hơn. Hơn nữa, những danh tánh được kể ra trong Lc 3, 1. 2 đều xác thực khi đối chiếu với lịch sử người đời: Pontiô Philatô làm tổng trấn xứ Giuđêa từ năm 26 s. CN; Hêrôđê Antipas làm vua xứ Galilê từ năm 4 tr. CN tới 39 s. CN; Philippus làm vua xứ Iturea từ năm 4 tr. CN. tới 34 s. CN; Hanna là thầy cả thượng phẩm từ năm 6 tới 15 s. CN và Caipha từ năm 18 tới năm 38 s. CN. Theo truyền thuyết, Gioan TG đã bị giam và bị xử tại pháo đài Machairos, thuộc miền nam Peraia, phiá bên kia Biển Chết.

Nếu thế, Chúa Giêsu có thể đã chịu phép rửa với ngài vào tháng 2 năm 27 –29 (9). Để trả lời câu hỏi, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa tại đâu, hiện nay có hai địa danh nằm dọc bờ sông Giordan được đem ra đề nghị: hoặc là Betabara, gần Jericho (miền Nam); hoặc là Aimon, gần Salem, phía nam Skythopolis (Bet-Schean) (miền Trung).

Sau khi chịu Phép rửa, Chúa Giêsu đã vào ẩn mình trong sa mạc (Mc 1, 12), có lẽ đây là sa mạc Giuđêa, gần thành Jericho (10) . Từ ngàn xưa nơi đây vốn là chỗ lui tới của những người "thoát tục". Vào sa mạc sau khi đã lãnh nhận Phép rửa là một thông lệ thời bấy giờ, đặc biệt thông lệ của nhóm Qumran. Tuy nhiên, không chắc Chúa Giêsu đã lưu lại đó những 40 ngày (nghiã là từ tháng 2 tới tháng 4) như TƯ cho biết. Con số 40 cũng là con số thường gặp trong Kinh Thánh (11) . Điển hình là trường hợp Maisen. Maisen cũng ẩn mình trên núi Sinai 40 ngày. Có lẽ TƯ chỉ nhằm đối chiếu Chúa Giêsu với Maisen. Nếu Maisen là đấng ban luật cũ, thì Chúa Giêsu là đấng ban luật mới. Do đó, theo tiêu chuẩn lịch sử chúng ta cũng khó lòng biết chính xác Chúa Giêsu đã lưu lại trong sa mạc là bao lâu (III, 290tt). Vào thế kỷ thứ 4 hoặc thứ 8 một tu viện Chính Thống giáo thường gọi là "gebel qarantal" đã mọc lên tại Dok, phía Tây Bắc Jericho để ghi nhớ việc Chúa Giêsu đã lưu lại nơi đây. Nếu Chúa Giêsu ở lại đó không bao lâu, thì rất có thể Ngài đã bắt đầu ra hoạt động vào khoảng đầu năm 27-29 s. CN.

2. Thời gian hoạt động
Theo PÂ Nhất lãm, Chúa Giêsu hành hương về Giêrusalem chỉ có 1 lần; còn theo PÂ Thánh Gioan thì Ngài hành hương về đó nhiều hơn là một lần: Gio 2, 13 cho biết Ngài về đó dự lễ Vượt qua. Gio 5, 1 cho biết Ngài về đó dự lễ của người Do Thái, Thánh sử không nói rõ nên có tác giả cho là Lễ Vượt qua, có tác giả cho là lễ Lều Trại. Gio 7, 2. 14 cũng cho biết Chúa về đó dự lễ Lều Trại (12). Gio 10, 22 còn cho biết Chúa về đó dự lễ Cung Hiến Đền Thờ. Ngoài ra, theo PÂ Nhất lãm cũng như PÂ Thánh Gioan (19, 1) lúc Chúa Giêsu tử nạn cũng chính là mùa lễ Vượt qua. Tóm lại, có thể Ngài đã về đó dự lễ Vượt qua tới 3 lần. Như thế, Ngài phải hoạt động được 3 năm, hoặc ít nhất cũng phải là 2 năm tròn.

Tuy có sự khác biệt giữa PÂ Nhất lãm và PÂ Thánh Gioan, nhưng không nhất thiết là những chi tiết đó phải mâu thuẫn lẫn nhau. Có lẽ PÂ Nhất lãm đã tóm tắt rất nhiều thời gian hoạt động của Chúa. Vả lại, khi các Thánh Sử chỉ tường thuật có 1 lần việc Chúa Giêsu về Giêrusalem, chưa có nghiã là Ngài hoạt động chỉ được có 1 năm.

Có điều chắc chắn, Chúa Giêsu không phải là một người xa lạ nơi thành thánh này. Theo các PÂ, Chúa Giêsu có nhiều bạn hữu ở đó (13) , ngoài ra Ngài cũng có nhiều người thiện cảm cũng như nhiều kẻ chống đối Ngài. Điều đó chứng tỏ, Ngài phải đến đó ít nhất mấy lần, chứ không phải chỉ có 1 lần duy nhất. Hơn nữa, Mt 23, 37 cũng cho phép chúng ta phỏng đoán Ngài phải đến đó nhiều lần: "Giêrusalem! Giêrusalem! đã bao lần Ta muốn tụ tập các con cái ngươi lại..." Lc 9, 53; 13, 1-5; 17, 11 cũng tiết lộ những chi tiết tương tự như thế (III, 290).

Từ Galilêa (địa bàn của Chúa ở miền Bắc) về Giêrusalem (miền Nam) thời đó có 3 trục lộ chính, không biết Chúa đã đi đường nào. Mc 10, 46 cho biết, một lần Chúa đi ngang Jericho. Nếu đã tới Jerichô, chắc chắn Ngài sẽ theo con đường thông thường là Wadi el-Kelt mà về Giêrusalem. Nếu thế, chúng ta có thể dự đoán Ngài đã dùng tuyến đường phía Đông, dọc theo bờ sông Giordan.
Nếu thực sự Ngài đã đi con đường này, thì buộc lòng Ngài phải băng qua miền Samaria (miền Trung) và mất tới 3-4 ngày đường. Vào mùa Xuân, khí trời ấm áp, dễ chịu, lữ khách có thể dừng chân nghỉ đêm ngay ngoài trời thanh tịnh, là chuyện khá thông thường vào thời đó.
2.     Địa bàn hoạt động
Thành phố ngư phủ Capharnaum (tiếng Do thái là Kefar-nahum: làng Nahum), nằm về phía Tây Bắc bờ hồ Gennesaret, là trung tâm vùng hoạt động của Ngài (Mc 1, 21; 2, 1). Mt 9, 1 gọi thành phố này là "thành phố của Ngài". Vì thế, có tác giả cho rằng đây là quê hương thứ hai của Chúa và quả quyết thêm rằng, Ngài còn có cả một ngôi nhà tại đó (Mc 2, 15; 9, 33). Nếu quả thực như thế, thì rất có thể Ngài và mẹ Ngài đã di chuyển về vùng này, trước khi ra hoạt động công khai.

Capharnaum ngày xưa là một thành phố ngư phủ khá phồn thịnh (mẻ lưới lạ Lc 5, 6). Vì nằm giữa ranh giới lãnh địa của Hêrôđê Antipas và Philippus nên thành phố này cũng có cả trạm thuế (thánh Matthêu có lẽ được Chúa gọi nơi thành phố này). Dân nơi đây là dân "tứ chiếng" nên tâm lý cởi mở, dễ dàng đón nhận giáo thuyết mới hơn những nơi khác. Rất tiếc, ngày nay Capharnaum chỉ còn lại những dấu vết hoang tàn, nổi bật nhất là ngôi nhà Thánh Phêrô và ngôi hội đường được xây dựng vào thế kỷ thứ 2, nhưng cùng trên nền hội đường cũ thời Chúa Giêsu (14). Hội đường cũ do một vị quan Roma ngoại giáo đã xây cất cho dân bản xứ (Lc 7, 5). Và có lẽ Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần rao giảng trong hội đường này. Ngoài ra, Ngài còn hoạt động tại các vùng Nain, Cana, Chorazim, Betsaida, Nazareth là những vùng đa số dân Do Thái sinh sống tại miền Galilêa. Dĩ nhiên, còn phải kể đến Giêrusalem, thủ đô toàn quốc của Do Thái kể từ thời vua David (15). Cũng như các tiên tri thuở trước, Ngài chỉ hoạt động giữa người Do Thái và cho người Do Thái mà thôi. Ý hướng đó được thể hiện rõ ràng qua việc Ngài lựa chọn 12 môn đệ gồm: Simon Phêrô, Giacôbê, Gioan, Anrê, Philippê, Barthôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê, Thađêô, Simon Nhiệt thành và Giuđa Iskariôt. Các ông thuộc đủ mọi thành phần khác nhau, nhưng có lẽ tất cả đều xuất thân tại vùng Galilêa như Ngài, để tiếp tay với Ngài chiêu tập 12 chi họ Israel là: Ruben, Simeon, Levi, Giuđa, Zabulon, Issakar, Dan, Gad, Aser, Nephtali, Giuse và Bejamin, dù thời đó chỉ còn lại 2 chi họ rưỡi là Juda, Benjamin và Lêvi mà thôi. Tuy nhiên, Ngài vẫn có cảm tình và rộng tay giúp đỡ cả những người dân ngoại. Những vùng ngoại giáo như Sepphoris, Skyt hopolis, Gabai, Hippos, Gadara, Gerasa, Cesarea Philippi, Tyros, Sidon là những nơi mang dấu vết chân Ngài. Đối với chúng ta, ngày nay rất khó có thể vẽ một lộ trình chính xác về những vùng Ngài đã đặt chân qua. Những chi tiết địa lý do các PÂ để lại cho chúng ta tương đối mơ hồ, đến nỗi ngay cả những quả núi được nhắc đến trong đó cũng khó có thể được xác định trên địa hình thực tế hiện nay là ở đâu. Chúa Giêsu không giảng dạy tại một nơi cố định, nhưng Ngài thường đi khắp nơi, giảng dạy bất cứ lúc nào, khi thuận tiện. Ngài lui tới với mọi người, nhưng đặc biệt là giới "Amme- ha-Arez" (dân quê).
3.     Thứ tự các hoạt động theo thời gian
Ai cũng bết, khi chép PÂ, các Thánh Sử không ghi lại các sự kiện theo thứ tự không gian và thời gian khách quan, nhưng theo "thứ tự" Thần Học chủ quan của các Ngài. Vì lưu tâm tới khía cạnh Thần Học của vấn đề, nên các ngài (đặc biệt tác giả PÂ Thánh Gioan) có thể hy sinh những tiểu tiết, thứ tự lịch sử hoặc địa lý. Vì thế, các sự kiện mà chúng ta có trong tay đã bị "đảo lộn" đi rất nhiều (theo nhãn quan khoa học lịch sử ngày nay). Sau đây, chúng ta sẽ dựa theo phương pháp phê bình lịch sử, để xếp lại những sự kiện đó theo thứ tự thời gian, mong có được một cái nhìn nhất quán và liên tục về các hoạt động của Chúa Giêsu. Trong cách phân chia này chúng ta tạm dựa theo giả thuyết Ngài đã hoạt động được hơn kém là 3 năm theo truyền thống xưa nay của GH.
(1) Trước lễ Vượt Qua năm 27 (29): Chúa Giêsu từ sa mạc trở về vùng sông Giordan, được Thánh Gioan TG nhường lại cho hai môn đệ là Gioan và Anrê.- Hai vị này chiêu mộ thêm Simon Phêrô, Philippê và Nathanael (Gio 1, 35-51).- Vào "một ngày thứ ba" Ngài cùng 5 môn đệ đầu tiên đến dự tiệc cưới tại Cana.- Sau đó, Ngài cùng mẹ Ngài và 5 môn đệ đầu tiên di chuyển về thành phố Capharnaum bên bờ hồ Gennesareth (Gio 2, 12).
(2) Dịp lễ Vượt Qua năm 27 (29): Chúa Giêsu lên Giêrusalem dự lễ, Ngài thanh tẩy đền thờ (Gio 2, 13-22) và gặp gỡ Nicôđêmô (Gio 3, 1-21).
(3) Từ đầu mùa Hè tới tháng 11 năm 27 (29): Chúa Giêsu từ Giêrusalem trở lại vùng sông Giordan, nơi Ngài đã lãnh Phép Rửa với Thánh Gioan TG trước đó, để tiếp tục rao giảng. – Sau khi bị bọn Pharisiêu theo dõi, Chúa bỏ về vùng Galilêa qua ngả Samaria, gặp người phụ nữ bên bờ giếng Giacob (Gio 4, 1-42) và chữa bệnh cho đứa con của một vị quan triều đình (Gio 4, 43-54).
(4) Từ cuối năm 27 (29) tới mùa Thu năm 28 (30) (hoặc đầu năm 29/31): Rất khó xếp đặt thứ tự  cho giai đoạn này. Vì thế, E. Stauffer cho rằng giai đoạn này là "10 tháng thầm lặng" của Chúa. Thực sự, Chúa không nghỉ ngơi, nhưng còn hoạt động mạnh hơn trước, đến nỗi Thánh Gioan TG đã sai môn đệ đến hỏi Ngài: "Thầy có phải là Đấng phải đến không?" (Mt 11, 3). Chúng ta có thể tạm xếp đặt giai đoạn này lại như sau:
-         Hoạt động âm thầm tại Galilêa.
-         Lên Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, có lẽ dự cả lễ Ngũ Tuần (16) của năm 28 (30).
-         Chữa nhạc mẫu Phêrô, chữa 1 người bất toại cùng nhiều bệnh nhân khác.
-         Cuối Hè năm 28 (30): Kêu gọi thêm môn đệ.
-         Sau khi Gioan TG bị tống ngục, Chúa Giêsu lại hoạt động mạnh hơn qua bài giảng "phúc thật tám mối" được coi như là đường hướng cho chương trình hoạt động của Ngài. - Chữa một người phong cùi (Mt 8, 1-4). - Chữa đầy tớ quan bách quân (Mt 8, 5-13). - Trừ quỷ (Mt 12, 22-24; Lc 11, 14). - Bài giảng trên hồ (Mc 4, 1-34). - Vượt qua biển động và trừ quỷ tại Gerasa (Mc 4, 35-5, 21).
-         Làm cho con gái Jairus sống lại (Mc 5, 22-43). - Bị tẩy chay tại Nazareth (Mc 6, 1-6). - Sai môn đệ đi rao giảng (Lc 9, 1). - Rao giảng tại Giuđêa, trên đường về dự lễ Lều Trại (cuối tháng 9) và Gioan TG đã sai môn đệ đến hỏi Chúa (Lc 7, 18-28).
(5) Tháng 10 năm 28 (30): Gio 5, 1 cho biết Chúa Giêsu lên Giêrusalem dự "lễ của người Do Thái". - Chữa một người bất toại tại Betesda (Gio 5, 1-15).
(6) Tháng 1 năm 29 (31): Có lẽ cũng khoảng thời gian này Philatô đã nhận tước hiệu "amicus Caesaris" (bạn của Hoàng Đế) (xem: Gio 19, 12) do Sajanus ban tặng. Sajanus là vị hoàng đế khét tiếng thù ghét người Do Thái trong lịch sử Roma.
(7) Đầu năm 29 (31): Tại Galilêa, dân chúng đặt niềm hy vọng vào Chúa Giêsu là Đấng Messia. - Phép lạ bánh hóa nhiều (Gio 6, 1-13) - Tranh luận với người Do Thái tại hội đường Capharnaum về lời hằng sống và được lưu truyền trong Gio 6, 22-71 như là giáo huấn của Chúa về phép Thánh Thể. Vào dịp lễ Vượt Qua năm nay, Chúa Giêsu hành hương về Giêrusalem dự lễ. Dù Thánh sử Gioan không nhắc đến việc đó trong giai đoạn này, nhưng Chúa Giêsu rất trung thành với truyền thống đạo đức này, và Ngài cũng không hề bị đối phương tố cáo là đã chểnh mảng việc hành hương, cho nên chúng ta được phép suy ra: Vào mùa lễ năm nay Ngài cũng có mặt tại đó.
(8) Từ lễ Vượt Qua (tháng 4) tới lễ Lều Trại (tháng 9) năm 29 (31): Chúa Giêsu trở lại Galilêa để tránh đám đông và tránh Hội đồng Tôn giáo tối cao. Trong thời gian này Ngài có mặt tại vùng Tyrus và Sidon (Mc 7, 24-30). - Phép lạ bánh hóa nhiều (Mc 8, 1-9). - Chúa lánh mặt tại vùng Cesarea Philippi và được Phêrô tuyên xưng: Ngài là Đấng Messia (Mc 8, 27-34). - Tiên báo về cuộc khổ nạn (Mc 8, 30-32). - Cuối Hè năm 31, Ngài biến hình trên núi Tabor (Mc 9, 1-9). - Câu chuyện dưới chân núi (Mc 9, 13-28). - Tiên báo khổ nạn lần thứ 2 (cả 4 PÂ đều ghi lại), tạo dịp cho các môn đệ tranh ngôi, tranh quyền (Mc 9, 32-36). –  Tháng 9 năm 31, Ngài hành hương về Giêrusalem dự lễ Lều Trại.
(9) Lễ Lều Trại: Lễ Lều Trại luôn là dịp lễ quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu. Lễ này kéo dài 7 ngày cộng thêm 1 ngày bế mạc. Sau lễ (Gio 7, 37) Ngài tranh luận trong Đền thờ về các tiên tri, gây thắc mắc cho Hội đồng Tôn giáo (Gio 7, 37-52). - Đêm trước ngày bế mạc, Chúa Giêsu lên núi Cây Dầu. - Ngày bế mạc, Ngài tranh luận với Ký Lục và Biệt Phái về ánh sáng thế gian (Gio 8, 12tt) nên bị họ đe ném đá. Thế là Ngài ra khỏi Đền thờ (Gio 8, 59). - Gặp người mù từ lúc mới sinh, Ngài chữa lành, nhưng vì là ngày Sabbat nên bị Biệt Phái phản đối (Gio 9, 1-14). - Sau đó, Ngài trở về Galilêa.
(10)        Mùa Đông năm 29 (31) (tháng 11/12): Chúa Giêsu hành hương về Giêrusalem dự lễ Cung hiến Đền thờ (Lc 9, 51-10, 24). - Dân Samaria không cho Chúa trọ nhà (Lc 9, 52-56). - Chúa sai 70 (72) (17) môn đệ đi trước, rao giảng tại miền Giuđêa (Lc 10, 1tt). - Ngài đến thăm chị em Maria, Martha và Lazarô (Lc 10, 38-42). - Trong dịp lễ, Ngài bị dân chúng vặn hỏi, có phải là Đấng Messia không? Ngài giải thích, nhưng bị đe dọa ném đá (Gio 10, 22-39). - Lễ xong, Chúa về ẩn lánh tại vùng bắc Peraia (Gio 10, 40), bên kia sông Giordan, có lẽ cũng là chỗ Gioan TG đã làm phép rửa trước kia (Bethabara).
(11)        Chúa lánh mặt tại Peraia: Peraia nằm ở phía Đông Bethania và không xa nơi này nhiều lắm. Khi nghe tin Lazarô đau nặng, Chúa còn ở đó thêm 2 ngày Khi đến Bethania, Ngài đã làm cho Lazarô sống lại (Gio 11, 1-44). - Sau đó, Hội đồng Tôn giáo họp lại tìm cách khai trừ Chúa Giêsu, lý do có liên hệ tới vụ Lazarô (Gio 11, 45-53) (18) - Chúa lánh mặt sang vùng Efraim (Gio 11, 54), khoảng 20 km phía Bắc Giêrusalem và gần sa mạc (III, 290-293).

MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO:
I. BiKi 24 (1969) tập 2
II. Leroy, H., Jesus. Ueberlieferung und Deutung (Ertraege der Forchung 95). Darmstadt: Wiss. Buchges. 1978.
III. Tiết mục: Versuch einer Chronologie des Lebens Jesu, in: Mertens, H. A., Handbuch der Bibelkunde. Duesseldorf: Patmos 1984, 287-295.
IV. Schmid, J., Das Evangelium nach Lukas (Regensburger NT III): Das 15. Jahr des Kaisers Tiberius und die Chronologie des Lebens Jesu. Regensburg: Pustet (1) 1940 - (4) 1960, 94 tt.
V. Trilling, W., Fragen zur Geschichtlichkeit Jesu. Duessedorf: Patmos/Leipzig: St. Benno 1966.
VI. Trilling, W., Vielfalt und Einheit im NT (Unterweisen und Verkuenden 3). Einsiedeln-Zuerich-Koeln: Benziger 1968.
VII. Chữ: Jesus von Nazareth; trong: G. Cornfeld - G. J. Botterweck (xb.), Die Bibel und ihre Umwelt (Pictorial Biblical Encyclopedia. Tel Aviv 1964). Bergisch-Gladbach: G. Luebbe 1988, 762-776.
VIII. Gnilka, J., Jesus von Nazaret. Botschaft und Geschichte. (HThK NT, Suppl.III). Freiburg-Basel-Wien: Herder (2) 1991.

III. CUỘC KHỔ HÌNH VÀ TỬ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU
1.     Cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem
Theo Gio 11, 54, Chúa Giêsu từ Efraim, nơi Ngài đang lánh mặt, trở về Giêrusalem; Còn theo Lc 17, 11, Ngài lại khởi hành từ phương Bắc. Dầu sao đi nữa, Ngài cũng phải bắt đầu lên đường trước ngày đại lễ khoảng 2 tuần.
-         Trên đường về, Ngài còn chữa lành 10 người phong cùi (Lc 17, 11-19) ngoài thành Jericho.
Vào ngày thứ Năm (trước Chúa Nhật lễ Lá hiện nay) Ngài chữa thêm 1 người mù nữa. - Gặp Giakêu (Lc 19, 1-10) và nghỉ đêm tại nhà ông đêm thứ Năm rạng ngày thứ Sáu. - Sáng hôm sau, Ngài tiếp tục cuộc hành trình về Giêrusalem. Đêm đó, có thể Ngài nghỉ tại nhà Lazarô, hoặc có thể nghỉ ngay tại núi Cây Dầu theo thông lệ. Nhưng dù sao chăng nữa, chắc chắn vào ngày Sabbat hôm sau Ngài đã có mặt tại Betania, để vào Hội đường cầu nguyện. - Sau khi ở Hội đường về, Ngài tới nhà Simon dùng bữa trưa và được Maria xức dầu thơm (Gio 12, 1-8). - "Vào ngày hôm sau" (Gio 12, 12), tức là ngày thứ nhất trong tuần (Chúa Nhật lễ Lá hiện nay) Ngài từ Betfage vào thành Giêrusalem, được đa số dân chúng tiếp đón bên đường (Lc 19, 28-40). Khi tới núi Cây Dầu, Chúa dừng chân nhìn về Giêrusalem và khóc thương cho số phận thành này (Lc 19, 41-44). - Sau cuộc khải hoàn, Ngài lại vào Đền thờ. Có thể xếp đoạn PÂ Chúa "thanh tẩy Đền thờ (lần thứ hai)" vào trong khoảng thời gian này.
2.     Từ Chúa Nhật tới thứ Tư Tuần Thánh
Có thể xếp lại các sự kiện như sau: Chúa bị chất vấn, có nên nộp thuế cho hoàng đế không (Mt 22, 15-21 ss). - Tranh luận với nhóm Sađuxê về sự sống lại (Mt 22, 23-33 ss). - Che chở người đàn bà ngoại tình khỏi bị ném đá (Gio 8, 1-11). Matthêu còn thêm nhiều sự kiện khác nữa trong khoảng thời gian này (22, 34-40; 22, 41-46; 23, 1-36; 22, 1-14; 24, 1-51; 25, 1-13; 25, 14-32; 25, 31-46). Tuy nhiên, không có gì là phi lý khi chúng ta xếp những sự kiện này vào khoảng thời gian sớm hơn.
3.     Từ thứ Tư tới thứ Sáu Tuần Thánh
Thời gian này tuy ngắn ngủi, nhưng rất phức tạp, vì các Thánh Sử đã rút gọn các biến cố lại rất nhiều. Thêm vào đó, còn phải kể tới sự khác biệt giữa các PÂ. Theo PÂ Nhất lãm (Mc 14, 12 ss) bữa Tiệc Ly của Chúa là bữa tiệc mừng lễ Vượt Qua; còn theo PÂ Thánh Gioan, bữa tiệc Vượt Qua này lại là chiều ngày thứ Sáu, nghiã là khi Chúa đã tử nạn trên cây thánh giá rồi. Như thế, theo PÂ Thánh Gioan, bữa Tiệc Ly không phải là bữa Vượt Qua. Sự khác biệt tuy nhỏ nhưng có tầm mức Thần Học quan trọng này có thể tạm giải quyết ổn thỏa bằng giả thuyết cho rằng Thánh Gioan đã hy sinh tiểu tiết lịch sử, để làm nổi bật khía cạnh Thần Học của việc Chúa chịu chết: Ngài tử nạn như một con chiên hy tế trong lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu mới là Con Chiên hy tế đích thực, thay thế con chiên trong Cựu ước.
a)    Bữa Tiệc Ly vào ngày nào trong tuần?
Một số tác giả cho rằng, Chúa dùng bữa Tiệc Ly không phải vào tối thứ Năm (như GH vẫn thường mừng lễ từ trước tới nay) nhưng là vào tối thứ Ba. A. Jaubert (La Date de la Cène. Paris 1957) nghiên cứu và cho biết, các tu sĩ sống tại Qumran đã dùng một thứ lịch riêng, khác với loại lịch thông dụng thường được dùng tại Giêrusalem. Loại lịch của nhóm Qumran này căn cứ theo sách Giôben và tính theo mặt trời; trong khi đó, loại lịch tại Giêrusalem lại tính theo mặt trăng! Điều này được các bản văn thời đó (thí dụ: 1 QM 2, 1-2) chứng minh là đáng tin cậy.
Do đó, người ta cho rằng vào thời Chúa Giêsu đã có hai thời điểm để mừng lễ Vượt Qua. Nhưng dù tính theo loại lịch nào chăng nữa, ngày lễ Vượt Qua luôn phải là ngày 15 tháng Nisan. Tuy nhiên, nếu tính theo mặt trời, thì ngày này luôn là ngày thứ Ba trong tuần; còn nếu tính theo mặt trăng, thì lễ này luôn chuyển dịch khác nhau theo các ngày trong tuần (VIII, 281).


Kết luận: lễ Vượt Qua theo niên lịch của nhóm Qumran trong năm Chúa tử nạn phải là ngày thứ Ba. Nếu theo giả thuyết này, chúng ta sẽ giải quyết được nhiều khúc mắc cho ngành chú giải về giai đoạn này trong cuộc đời của Chúa. Cho nên không lạ gì, khi giả thuyết này được J. T. Milik... và mới đây E. Ruckstuhl ủng hộ nhiệt liệt. E. Ruckstuhl (xem: Zur Chronologie der Leidensgeschichte Jesu, lần cuối cùng in trong: --, Jesus im Horizont der Evangelien (SBAB 3). Stuttgart 1988, 101-139; 141-184) còn lý luận, các phiên tòa xét xử Chúa Giêsu không thể giải quyết quá lẹ trong một đêm thứ Năm như vậy được, nhất là khi Ngài lại bị áp giải đi đi lại lại mấy lần như thế. Ruckstuhl còn đi xa hơn nữa, khi cho rằng Chúa cũng dành rất nhiều cảm tình với nhóm Qumran (19) và kẻ cho Chúa mượn phòng dùng bữa Tiệc Ly rất có thể là một người trong nhóm này thuộc chi nhánh tại Giêrusalem.

Dù thế, chúng ta vẫn quyết định tạm chọn ngày thứ Năm là ngày Chúa dùng bữa Tiệc Ly theo truyền thống xưa nay của GH trong cách phân chia dưới đây:

Sau trưa ngày thứ Năm, Chúa trao trọng trách cho Phêrô và Gioan lo chuẩn bị mừng lễ. Nếu Chúa đã thực sự ăn chiên Vượt Qua trong dịp này, thì bắt buộc Phêrô và Gioan phải kiếm chiên mà giết trong Đền Thờ theo luật định. Nếu không, các ngài vẫn có thể giết chiên tại nhà, nhưng như thế không thể gọi là chiên Vượt Qua. Khi trời vừa tối, Chúa tìm tới nơi dự tiệc. Tiệc này chỉ được dùng trong vòng đai của thành thánh Giêrusalem. Bữa ăn thường kéo dài từ lúc mặt trời lặn cho tới mãi nửa đêm. Nếu thực sự bữa này là bữa Vượt Qua, thì tất cả thực khách phải ăn theo thế nằm và uống rượu theo luật định. Luật buộc uống rượu nhằm làm nổi bật tính cách đại tiệc của bữa Vượt Qua, vì thời đó không phải ngày nào cũng có rượu mà uống! (20). Khi dùng bữa xong, có thể Chúa đã ghé qua Đền Thờ, vì Đền Thờ từ đêm nay đã bắt đầu mở cửa để mừng lễ Vượt Qua. Sau đó Ngài mới ra vườn Giệtsimani (nghiã là: máy ép dầu) nằm tại chân núi Cây Dầu. Nếu không ghé qua Đền Thờ, Ngài sẽ tới núi Cây Dầu vào khoảng 12 giờ đêm; còn nếu ghé qua Đền Thờ, Ngài sẽ đến đó trễ hơn 1 giờ, nghiã là vào khoảng 1 giờ sáng ngày thứ Sáu. Đêm nay, nếu Ngài có bỏ Giêrusalem mà ra núi Cây Dầu, cũng không có gì là vi phạm luật lệ lễ Vượt Qua. Khu vực núi Cây Dầu, tuy nằm ngoài bức tường thành thánh, nhưng luật vẫn nhân nhượng vì con số khách hành hương trong dịp này quá đông, nên vẫn được kể là khu vực hành lễ. Theo W. Steark, thủ đô Giêrusalem thời Chúa Giêsu có tới 200.000 thị dân, trong khi đó J. Jeremias ước lượng chỉ vào khoảng 55.000 hoặc cao lắm là 95.000. Theo thiển ý, con số 55.000 đáng tin hơn. Nếu thế, vào dịp lễ Vượt Qua, số khách hành hương khắp nơi (cả vùng diaspora) tuốn về thêm khoảng 125. 000 người nữa. Tổng cộng, có tới 180.000 người có mặt tại thủ đô bé nhỏ này trong dịp đó. Như thế là quá chật chội, buộc vòng đai hành lễ phải nới thêm.
Có lẽ cũng vì quá chật chội như thế mà Chúa Giêsu đã ra núi Cây Dầu để cầu nguyện. Nhưng thực ra Ngài ở đó không được lâu, vì khoảng 1 giờ (hoặc 2 giờ, tùy có ghé qua Đền Thờ hay không) sáng, Ngài đã bị bắt giam.
b)    Bị bắt và ra tòa
Ai bắt Chúa? Theo Mc 14, 43, Ngài bị bắt bởi một đội quân trong Đền Thờ, do các Thượng tế, Ký lục và Kỳ lão sai đi. Một số thành viên của 3 phe này làm thành Tòa án Tôn giáo Tối cao (Synhedrion). Còn theo Mt 26, 47, đội quân đi bắt Chúa là do Thượng tế và Kỳ lão sai đi (không có Ký lục). Trong khi đó, Lc 22, 52 lại cho biết, đích thân các Thượng tế và Kỳ lão cùng đội quân Đền Thờ của họ đã ra tay bắt Chúa! Gio 18, 3 cho biết thêm, ngoài đội quân của Thượng tế và Biệt phái còn có cả một cơ binh (speira) cùng 1 cơ đội trưởng (chiliarchos: 18, 12) đã cộng tác trong việc này. Chi tiết này hơi phi lý, vì 1 "speira" của đội quân Roma có tới 600 người!
Hơn nữa, nếu chính người Roma đi bắt, thì họ đã giải Chúa Giêsu về thẳng với vị quan của họ là Philatô! (VIII, 292t).

Bắt được Chúa là nhờ sự cộng tác của Giuđa Iscariot, 1 trong nhóm 12 môn đệ của Ngài. Có tác giả cho rằng, có lẽ trước khi theo Chúa, Giuđa đã có chân trong "mặt trận cứu quốc". Chữ Hy lạp"Iscariôtês" có thể bắt nguồn từ chữ La tinh "sicarius" và có nghĩa là: người mang đoản kiếm (siqarim). Ở đây chúng ta không khỏi thắc mắc: nếu Giuđa đã thực sự bỏ đi sau khi dùng món khai vị trong bữa Tiệc Ly - như từ trước tới nay chúng ta vẫn ước đoán -, thì lúc đó trời còn sớm. Tại sao Giuđa không dẫn người tới bắt Chúa tại nhà Tiệc Ly mà lại bắt Chúa tại núi Cây Dầu?

Khoảng 2 hoặc 3 giờ sáng ngày thứ Sáu Chúa Giêsu bị điệu đến trước mặt Thày cả Thượng phẩm Hanna và bị vị này chất vấn. Theo Josephus Flavius (Ant. 20, 198), Hanna là một trong những người có phúc nhất thời đó, vì ông có tới 5 người con cũng thuộc hàng thượng tế. Chỗ khác (De Bello Judaico 5, 506) Josephus Flavius còn cho biết, mộ phần của Hanna nằm ở phía Nam thành phố Giêrusalem. Cuộc điều tra tại dinh Hanna chỉ kéo dài khoảng 1 tiếng đồng hồ, tức khoảng 3 hoặc 4 giờ sáng là xong, hợp với tiếng gà gáy nhắc nhở Phêrô, "lúc ngày mới vừa bắt đầu" (Lc 22, 66). Sau đó, Hội đồng Tôn giáo nhóm họp. Cơ quan này là Tòa án Tối cao Do thái cũng gọi là Tòa Đại hình (beth dijn ha-migdol) gồm 70 thành viên cộng thêm Thày cả Thượng phẩm đương nhiệm. 70 thành viên này thuộc 3 phe khác nhau: Thượng tế, Ký lục và Kỳ lão, nhưng trong thực tế, phe Thượng tế có nhiều thế lực hơn 2 phe kia. Theo PÂ Nhất lãm, cơ quan này đã nhóm họp vào đêm hôm đó (Mc 10, 53-65 ss) tại Đền Thờ. Còn theo PÂ Thánh Gioan (18, 12-14. 19-24), sau khi Chúa Giêsu bị Hanna (nhạc phụ Caipha) thẩm vấn, Ngài đã bị điệu tới nhà Caipha.

Chúng ta biết, theo sách Mischna - được chép vào năm 200 s. CN nhưng có lẽ lề lối này đã được áp dụng ngay từ thời Chúa Giêsu - cơ quan này chỉ họp lúc ban ngày mà không họp vào ban đêm như PÂ Nhất lãm cho biết, nhất là vào đêm mừng lễ Vượt Qua thì lại càng phi lý. Hơn nữa, trên phương  diện pháp lý, nếu cơ quan này đã chính thức họp, thì họ có toàn quyền
sinh sát mà không cần đến chính quyền bảo hộ Roma! Họ có quyền xử tử công dân Do thái. Dĩ nhiên, hình thức án phạt không phải là đóng đinh nhưng chỉ là ném đá. Trái lại, như chúng ta thấy trong trường hợp Chúa Giêsu, họ đã dùng đến cánh tay của Philatô, đại diện cho chính quyền Rôma. Như thế,  điều phi lý này chỉ giải thích được, nếu chúng ta theo giả thuyết: Cơ quan này đã không chính thức họp vào đêm đó, nhưng cùng lắm chỉ gặp nhau tại dinh Thày cả Thượng phẩm với tư cách riêng tư, để hội ý, điều tra và tìm cách kết tội Chúa sao cho có hiệu quả mà thôi (VIII, 294-298.771).  "Tới sáng" họ lại áp giải Chúa tới dinh Tổng trấn Philatô (Mc 15. 1).  Philatô là vị Tổng trấn thứ 5 của Roma tại vùng đất này. Theo Philo (Legato ad Gaium, 301-302), Philatô là người "cứng cổ, ngang ngược và đanh thép" đã "có những hành vi hối lộ, hung tàn, trộm cướp, ngược đãi, nhục mạ, có thể xử tử mà khỏi cần tòa án cũng như những chuyện cực kỳ tàn nhẫn khác". Chúa Giêsu bị áp giải tới Philatô vào một "buổi sáng". Đó là một chi tiết khá xác thực, vì hợp với quy định pháp lý trên thực tế. Theo quy định, tòa án Rôma thường bắt đầu nhóm họp, khi trời vừa mới hừng đông. Ngoài ra, một phiên tòa Roma phải hội đủ 4 điều kiện: (1) công khai, (2) người tố cáo phải là dân sự, (3) bị cáo có quyền bào chữa và (4) phải do một hội đồng (consilium) tuyên án. Dưới thới Hoàng Đế Augustus, vị quan Tổng trấn là Thẩm phán duy nhất. Ông có thể có thêm cộng sự viên, nhưng không bị lệ thuộc phán đoán của những người này (xem: Tđcv 25, 12) (XI, 298t). Trong phiên tòa xử Chúa, rất có thể Philatô đã dùng tới thông dịch viên, khi phải thẩm vấn Ngài. Phiên tòa này đã diễn ra một là tại pháo đài Antonia, nằm ở phía Tây Bắc Đền thờ; hai là trong cung điện Hêrôđê, nằm gần cổng Jaffa, phía Tây thành Giêrusalem, trong trường hợp dinh Philatô cũng nằm trong khu vực của hoàng cung (VIII, 309). Tuy nhiên, từ thế kỷ 12 người ta cho rằng phiên tòa xử Chúa có lẽ đã xẩy ra tại pháo đài Antonia. Vì vào những ngày đại lễ như thế, Philatô phải có mặt tại pháo đài này để trực tiếp chỉ huy việc giữ an ninh trật tự nơi đền thờ. Ngoài ra, Gio 19, 13 cũng cho biết: "Khi Philatô nghe thế, ông liền dẫn Chúa Giêsu ra ngoài, rồi ngồi trên ghế thẩm phán (chính ông ngồi lên hay ông bắt Chúa ngồi lên: có hai cách dịch), chỗ gọi là "lithostrotos", tiếng Do thái gọi là "Gabbatha". "Gabbatha" có nghiã là 1 "chỗ cao", có lẽ cũng là một chỗ nào đó trong pháo đài này. Nếu thực sự phiên tòa đã diễn ra tại đây, thì nơi đây có thể dung chứa được từ 4.000 tới 4.500 dân chúng vào tham dự, vì bên trong pháo đài có một sân rộng tới 2.500 m2 (VII, 773). Tuy nhiên giả thuyết này vẫn bị nghi ngờ, vì không trả lời được, tại sao bà vợ của Philatô cũng có mặt tại nơi đây trong những ngày "lộn xộn" như vậy.

Bản án công khai treo trên đầu thánh giá Chúa Giêsu tiết lộ cho chúng ta biết tội trạng chính thức người ta đã xử Ngài: Mưu đồ xưng vương. Đó là một tội phạm chính trị, có hại cho nền an ninh công cộng của đế quốc Roma. Ngoài ra, chúng ta còn biết những tội nhân bị án phạt đóng đinh trên thập giá trong khoảng thời gian từ lúc Roma đến bảo hộ vùng này cho tới khi kết liễu chiến tranh Do thái, tất cả đều bị kết án vì lý do chính trị như thế (VIII, 291). Nhưng nếu sự thực chỉ có thế (Philatô kết án Chúa, vì sợ Ngài nổi loạn), thì chúng ta đã không khỏi thắc mắc: Tại sao ông lại không cho "vơ gọn" tất cả các môn đệ của Ngài? Như vậy, có lẽ sự thực còn phức tạp hơn nhiều! Thực ra, phiên tòa này là kết qủa của một cuộc tranh chấp tôn giáo giai dẳng nhiều năm tháng. Qua các PÂ chúng ta được biết, Chúa thường công khai chỉ trích cách thức giữ luật và lối sống đạo của người (nhất là giới lãnh đạo) đương thời. Cao điểm là việc thanh tẩy Đền thờ. Cho nên, như trên đã nói, nhiều tác giả chủ trương, chính việc thanh tẩy này là nguyên nhân trực tiếp đã khiến người ta quyết định khai trừ Ngài. Như thế, lý do chính trị chỉ là "bình phong" của một vụ án tôn giáo khá mờ ám. Trong hình luật Roma, người ta thấy cũng có ghi lại hai loại tội đáng lãnh án tử hình như sau: (1) phản quốc (đế quốc Roma) (perduellio) và (2) làm mất thể diện của dân Roma (crimen maiestatis populi Romani imminutae). Lời giới thẩm quyền Do thái buộc tội Chúa Giêsu rất hợp với 2 loại tội ghi trong hình luật này (VIII, 291. 308).
Sau khi thẩm vấn xong, Philatô cho điệu Chúa tới gặp Hêrôđê, vì Philatô cho rằng ông vua này mới có quyền trên Chúa. Nhưng Hêrôđê không xử, lại trả lại cho quan Tổng trấn. Vì không tìm được lý do chính đáng, nên Philatô dự tính chỉ cho lính đánh đòn rồi tha Chúa, nhưng bị phản đối, buộc lòng ông phải kết án và cho phép thi hành. Phiên tòa kết thúc vào lúc 12 giờ trưa, "khoảng giờ thứ 6, nhằm ngày chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua" (Gio 19, 14). Quân lính áp giải Chúa đi đánh đòn, rồi đóng đinh theo bản án.
c)     Trên Thánh Giá
Trước khi bị điệu đi đóng đinh, Chúa Giêsu còn bị lôi ra đánh đòn theo thông lệ. Đánh đòn đây không phải là để tra tấn nữa, nhưng là phần "dạo đầu" đương nhiên của bản án đóng đinh. Từ thời Cato đã có luật bảo vệ người công dân Roma khỏi bị đánh đòn. Cesar coi đó là một hình thức hành hung tàn nhẫn.
Khi đánh đòn, lý hình thường dùng một sợi giây da (horribile flagellum), đầu giây có gắn xương khô, gai nhọn hoặc những hạt chì. Nạn nhân thường bị lột y phục, nằm dưới đất hoặc bị trói vào cột. Số roi thường không cố định, nhưng tùy hứng và tùy sức của lý hình (VIII, 308tt).
Bản án đóng đinh trên thập giá là một bản án rất phổ thông của người Roma dành cho phường phản loạn. Cicero (Pro Rabirio 5, 16) coi đó là "bản án tử hình tàn nhẫn và ghê sợ nhất". Josephus Flavius (Bell. 7, 203) cũng coi đó là "một cách chết thương tâm nhất". Đây cũng là hình phạt dành cho hạng nô lệ (servile supplicium) (Tatius, Historiae 4, 11). Đối với một
công dân Roma, muốn đóng đinh họ, trước hết phải tước quyền công dân của họ đi (VIII, 312).

Chúa Giêsu phải vác thánh giá đi ngang khu thượng của thành phố Giêrusalem, qua cổng Gennath, gần tháp Hippikus, mà ra pháp trường nằm phía ngoài bức tường thành phố. Hippkus, Phasael và Mariamme là tên của ba cây tháp nằm ở phía Đông Bắc cung điện Herôđê. Theo luật Roma đồng thời cũng hợp với phong tục Do thái, bản án phải được thi hành bên ngoài thành phố. Con đường đau khổ của Chúa phải đi (Via dolorosa (21)) chỉ dài chừng 1 cây số rưỡi.
Tấm bảng kể tội Chúa được viết bằng 3 thứ tiếng (Gio 19, 20) (22) - sau này sẽ được đóng trên đầu cây thánh giá - có thể đã do một người được lệnh cầm đi trước đoàn người hành quyết hoặc lý hình đã đem treo ngay vào cổ Chúa, lúc còn trên đường tiến ra pháp trường. Họ bắt tội nhân vác thập giá đi công khai như thế, nhằm cảnh cáo những kẻ bên đường. Tội nhân phải tự vác thanh ngang (patibulum) của thập giá. Nếu họ bắt ông Simon quê Xyrênê (Mc 15, 21 ss)
vác đỡ thánh giá Chúa, thì không phải ông này đã chung vai vác với Chúa (như những bức tranh thường thấy), nhưng là phải vác thay hẳn cho Ngài. Đây là bổn phận "lao công chiến trường" rất phổ thông dành cho những người Do thái thời đó, nhất là trong các dịp lễ quan trong như lễ Vượt Qua (VIII, 310).

Pháp trường của Chúa tại Golgota. Các Thánh Sử đều dịch là "núi Sọ" (Mc 15, 22 ss). Golgota bởi tiếng "golgolta" (bỏ mất 1 vần "l") của Do thái và có nghiã là: cái sọ người, một khối tròn. Ngọn đồi này mang tên như thế có lẽ vì hình dáng của nó trông giống như một cái sọ. Chúng ta không rõ, đây có phải là pháp trường cố định hay chỉ là nhất thời mà thôi. Ngọn đồi này nằm gần chỗ bức tường (thường gọi là bức tường thứ hai) phía Bắc quẹo về hướng Tây, nghiã là chỗ Đền thờ Mồ Chúa hiện nay. Thực ra, Đền thờ này đã được dựng lên lần đầu, khi Thánh Helena, từ mẫu của Hoàng đế Constantin, được thị kiến cho biết nơi đây là pháp trường của Chúa ngày xưa. Còn đền thờ hiện nay mới được Thập tự quân xây lại hồi thế kỷ 12, cũng nằm trên nền đền thờ cũ. Do đó, từ thế kỷ thứ 4 tới nay, nơi đây vẫn được coi là nơi Chúa đã bị treo trên thánh giá và được mai táng trong mồ. Tuy nhiên, khoa khảo cổ chỉ tìm thấy nơi đây những vết tích từ thời Hoàng đế Constantin mà thôi. Công cuộc khai quật của U. Lux-Wagner vào những năm 1971-1974 cho biết, Golgota (nếu thực sự nằm ở đây) chỉ cao khoảng 12 m so với đáy của hầm đá bên cạnh. Chi tiết này cắt nghiã tại sao khách hành hương từ Bordeaux tới Giêrusalem vào năm 333 đã gọi Golgota là "monticulus" (núi nhỏ, đồi). Cho tới nay giới khảo cổ cũng như giới chú giải Kinh Thánh, chưa ai dám xác quyết 100% là Golgota ngày xưa đã nằm tại đâu. Vì thế, một nơi khác gọi là "Gordon's Calvaria", nằm ở phía Bắc thành phố, cũng thường được đem ra đề nghị làm giải đáp thứ hai. Thực ra, rất khó mà xác định Golgotha nằm ở đâu, vì từ thời Chúa Giêsu tới nay, tường thành Giêrusalem đã bị phá đổ và xây lại nhiều lần. Thêm vào đó, vòng đai thành phố mỗi ngày một rộng thêm ra (XI, 310tt; IX, 773). Đến nỗi, ngay cả tên các cổng thành ngày xưa và ngày nay cũng không còn đồng nhất nữa.

Khi bị đóng đinh như thế, tử tội sẽ bị đóng đinh hoặc cột chặt hai tay vào thanh ngang (patibulum) mà chính mình đã vác trước đó, rồi bị dựng đứng lên. Lý hình sẽ tìm cách ghép thanh ngang này cùng với tội nhân vào thanh dọc là một cây cột đã dựng sẵn, làm thành thập giá hình chữ T (crux commissa) hoặc hình chữ + (crux immissa). Trong trường hợp Chúa Giêsu, có lẽ Ngài không được cột hai tay nhưng bị đã đóng đinh thực sự vào thánh giá. Gio 20, 25 và Lc 24, 39 tiết lộ cho chúng ta biết rõ điều đó. Nếu đóng đinh, thì đinh được đóng vào cổ tay, chứ không phải trong lòng bàn tay (như chúng ta vẫn thấy nơi các tượng chịu nạn). Và để thân xác nặng nề của tội nhân khỏi xệ xuống và sút khỏi thập giá, phía dưới thường có thêm một kệ chân (sedile).
Vì thập giá cũng không cao hơn thân hình tội nhân bao nhiêu, nên đôi chân của họ thường bị đóng theo thế cong vòng. Nạn nhân không thể duỗi thẳng chân ra được. Ngành khảo cổ đã khai quật được bộ xương của một người bị đóng đinh vào khoảng trước năm 70 s. CN. Người ta thấy như thế và cây đinh đóng thâu qua hai chân tội nhân vẫn còn dính liền với bộ xương, là một bằng chứng cho điều vừa mới mô tả (VIII, 311).
Chúa Giêsu bị đóng đinh vào lúc 13 giờ (1 giờ trưa), hợp với khoảng thời gian ông Simon từ ngoài đồng trở về nghỉ trưa, vì trời bắt đầu nắng gắt. PÂ Nhất lãm còn nói thêm: từ giờ thứ 6 tới giờ thứ 9, trời đất bỗng tối tăm (Mc 15, 33). Chi tiết này không gặp trở ngại nhiều cho cách tính giờ của chúng ta. Thời bấy giờ, khi nói vào giờ thứ 6 thì có thể hiểu cả những giờ sau giờ thứ 6 nữa, tương tự như tiếng "hồi trưa" của Việt Nam, không nhất thiết là phải đúng 12 giờ (III, 295).

Khi đóng đinh xong, lý hình có quyền chia nhau y phục của tội nhân. Đây là một thông lệ khá cổ điển. Nếu tội nhân còn tiền bạc và tài sản gì khác, sẽ bị xung vào công quỹ của quan Tổng trấn. Trường hợp Chúa Giêsu, lý hình chỉ có thể chia nhau chiếc áo trong, chiếc áo ngoài, một giây lưng và cùng lắm thêm một chiếc khăn che đầu mà thôi. Ngài không còn gì hơn nữa. Chúa sống khó nghèo. Ngài cũng sống như tiêu chuẩn chính Ngài đã đề ra cho các môn đệ Ngài, khi sai họ đi rao giảng: Các con chớ mang bị, hai áo, giày dép, gậy gộc! (xem: Mt 10, 10 ss). Khi tranh luận, có nên nộp thuế cho Cesar hay không, Ngài đã xin người ta cho Ngài xem một đồng tiền (Mc 12, 15). Có tác giả cho rằng, có lẽ vì Ngài chưa biết đến "mặt mũi" đồng tiền ra sao.

 Khoảng 14 giờ, những kẻ lên án Ngài bỏ ra về, để xin Philatô chuẩn bị cho cất xác nạn nhân xuống. Họ tin rằng, mọi sự đều đã thi hành theo đúng quy định Roma: đánh dập ống chân, cất xác xuống rồi thủ tiêu. Tất cả mọi hành vi đều có lính canh chừng. Những tên lính đứng canh dưới thập hình có hai nhiệm vụ như sau: (1)  chứng thực cái chết của tội nhân và (2) nếu quá hạn mà nạn nhân chưa chết, thì lo đập dập ống chân cho mau chết. Khoảng 15 giờ Chúa tắt thở. Ngài đã chết thực, không phải chết giả hoặc chưa chết hẳn, như người ta vẫn thường vu khống từ 200 năm qua. Có một sự khác biệt không thể bỏ qua trong các trình thuật của các PÂ trong giờ phút nghiêm trọng này. Theo PA Marcô và Matthêu, trước khi trút thở, Chúa Giêsu đã lớn tiếng than rằng: "Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con?" (Mc 15, 34 ss). Đó là 1 câu (2a) trong Thánh vịnh 22 (23) . Theo PÂ thánh Luca, Chúa Giêsu đã đọc một lời kinh chiều quen thuộc của Do thái giáo: "Con dâng linh hồn con trong tay Chúa" (24) và xin tha cho kẻ đóng đinh Ngài (23, 34. 46). Còn theo PÂ thánh Gioan, Chúa Giêsu đã thốt ra lời: "Mọi sự đã hoàn tất" (19, 30).
Sau khi Chúa Giêsu tắt thở, Giuse Arimathia đã đến xin Philatô cho cất xác Chúa xuống mà mai táng Ngài. Theo luật Roma, xác tử tội không được tháo xuống khỏi thập giá, nhưng cứ để rữa ra cho chim trời tới ăn. Sau đó, còn nếu còn gì sót lại mới được đem thủ tiêu, bình thường là quăng sông. GH thời sơ khai thường không lấy được xác các vị tử đạo là vì như thế. Nếu muốn lấy xác về an táng, phải có phép đặc biệt. Chính thân nhân của kẻ xấu số phải đứng ra xin. Nhưng nếu bị kết án vì tội "perduellio" (phản quốc) như trường hợp Chúa Giêsu, thì rất khó. Ngược lại, theo luật Do thái, nạn nhân bị tử hình trên thập giá cần phải được chôn táng ngay. Chôn táng ngay, không phải vì cảm thương người xấu số, nhưng vì sợ tên tử tội sẽ đem lại tai họa cho xứ sở và làm ô uế việc phụng tự. Đệ nhị Luật 21, 23 quy định: "Xác chết không được để qua đêm trên thập hình nhưng phải chôn ngay vào ngày đó, vì kẻ bị đóng đinh là kẻ bị Chúa chúc dữ. Ngươi không được phép làm ô uế đất đai mà Giavê đã ban cho ngươi làm thừa tự như thế." (XI, 314). Có lẽ vì tế nhị và vì tôn trọng luật lệ thiêng liêng này, mà Philatô đã cho phép cất xác và mai táng Chúa, ngay cả trong trường hợp bị kết tội là "perduellio". Dù nhằm ngày lễ Vượt Qua, nhưng vẫn không có gì cản trở việc an táng, vì an táng là việc nghiã, được phép làm cả trong ngày Sabbat. Có lẽ đến lúc trời vừa tối, Giuse Arimathia và các bạn ông mới hoàn tất việc này.
Trong khi đó, những kẻ đã kết án Chúa về tới nhà, bắt đầu mừng lễ Vượt Qua vào lúc 18 giờ. Họ có thể mừng riêng tại nhà hoặc mừng chung tại nhà một phòng hội nào đó (nếu là Pharisiêu). Sau khi dùng tiệc xong, họ mới được tin là xác Chúa Giêsu đã lọt vào tay Giuse Arimathia, nên lại gặp nhau bàn kế hoạch mới. Sáng sớm ngày Sabbat hôm sau, Hội đồng Tôn giáo tối cao còn gởi người đến xin Philatô cho lính canh mồ. Bốn người lính Roma được cắt cử làm công tác này. Họ canh gác liên tục từ sáng sớm ngày Sabbat hôm đó tới 1 giờ đêm của ngày đầu tuần hôm sau. Khi các bà đến thăm mồ Chúa, thì họ đã tẩu thoát hết.
4.     Chúa tử nạn vào năm nào và Ngài sống được bao lâu?
Theo Mc 14, 12 ss, Chúa Giêsu tử nạn vào ngày đầu tiên của lễ Vượt Qua, nghiã là ngày 15 tháng Nisan. Còn theo Gio 13, 1. 29; 18, 28; 19, 31, thì Ngài tử nạn vào ngày trước đó, nghiã là vào buổi chiều giết con chiên Vượt Qua. Đó là ngày 14 tháng Nisan. Tại sao lại có sự khác biệt quá quan trọng như thế? Có hai cách trả lời (phần trên đã nói qua, xin hệ thống lại như sau): (1) Có lẽ PÂ Nhất lãm trung thực hơn về chi tiết này. Chúng ta biết, Thánh Gioan thường hy sinh các chi tiết lịch sử cho mục tiêu Thần Học của Ngài. Ở đây cũng thế, ngài cố ý xếp giờ Chúa tử nạn sao cho trùng với lúc con chiên Vượt Qua bị hy tế, để chứng minh rằng, Chúa Giêsu mới là Con Chiên Vượt Qua đích thực (19, 18; xem thêm 18, 28). (2) Có thể vì thời đó có hai thứ niên lịch khác nhau được dùng song song cùng một lúc: lịch tính theo mặt trời (Qumran) và lịch tính theo mặt trăng (Giêrusalem). Ở Giêrusalem thời đó chưa có niên lịch nhất định, nhưng chỉ biết căn cứ vào lúc mặt trăng xuất hiện mà tính ngày cho từng tháng. Điều đó thiếu chính xác, vì khi mắt phàm thấy được ánh sáng, thì mặt trăng đã thực sự chuyển sang chu kỳ mới trước đó ít nhất là 1 ngày! Hơn nữa, nếu tính theo mặt trăng, thì một năm chỉ có 354 ngày. Do đó, cứ 19 năm lại có 7 tháng nhuận. Chưa kể lịch đôi khi cũng uyển chuyển theo "tình cảm", như khi đường xá xa xôi, khách hành hương chưa về kịp hoặc vì mùa màng chưa xong, chưa có của lễ để dâng lễ tạ ơn, thì cơ quan soạn lịch sẽ "nhân nhượng" thêm cho một tháng nhuận để đợi chờ! Cho nên, tính ngược lại sao cho chính xác sau gần 2.000 năm là việc quá phức tạp. Tuy nhiên, nếu Chúa Giêsu tử nạn vào một ngày thứ Sáu, người ta có thể tự hỏi, ngày thứ Sáu nào thời đó trùng với ngày 14 hoặc 15 tháng Nisan. J. Jeremias cho rằng: Ngày thứ Sáu đó rất có thể trùng vào ngày 15 Nisan 27 hoặc có thể cả những năm 30, 31 và 34 nữa. Cách tính này hợp với PÂ Nhất lãm. Còn nếu là ngày 14 Nisan thì rất có thể là những năm 30 và 33 và có thể cả năm 27 nữa. Cách tính này hợp với PÂ Thánh Gioan. Thực ra, chúng ta chỉ có được một vài niên hiệu khá chắc chắn, dùng làm "mốc" để tính thời gian như sau: "Mốc trước" (terminus a quo/ post quem) là lúc Chúa Giêsu bắt đầu ra hoạt động công khai, nghiã là không thể trước năm thứ 15 thời Hoàng đế Tiberius, là năm Gioan TG bắt đầu hoạt động. Ngài không thể hoạt động trước Gioan TG được. Năm thứ 15 thời Hoàng đế Tiberius nằm trong khoảng thời gian như đã nói trên từ 1. 10. 27 tới 30. 9. 28 là có lý hơn cả. Còn "mốc sau" (terminus ad quem/ ante quem) là năm Philatô bãi nhiệm chức Tổng trấn Giuđêa (năm 36). Hoặc xa hơn nữa, có thể tính cả niên hiệu Thánh Phaolô trở lại. Ngài chỉ có thể trở lại sau khi Chúa đã chịu tử nạn và sau khi GH sơ khai đã phát triển đến mức độ "đáng lo ngại". Theo W. G. Kuemmel, Thánh Phaolô trở lại khoảng năm 31/32. Còn theo W. Marxsen, ngài trở lại vào năm 33/34 là trễ nhất. Do đó ta có thể tạm rút ra kết luận là Chúa Giêsu đã tử nạn vào ngày thứ Sáu 7. 4. 30 (theo PÂ Nhất lãm). Đó là niên hiệu được nhiều tác giả công nhận. Hoặc cũng có thể xê dịch sang ngày thứ Sáu 14 Nisan 30, tức là ngày 6. 4. 30 (theo PÂ Thánh Gioan). Tuy nhiên, các đề nghị cho giải đáp này vẫn còn trải dài từ năm 27 (sớm nhất) cho tới năm 33! (trễ nhất). Theo đó, Chúa Giêsu phải đạt đến từ 36 tới 39 tuổi đời, chứ không phải chỉ có 33 như chúng ta vẫn tin (II, 92-97; IV, 97).
Như thế, cuộc đời Chúa Giêsu gắn liền với 2 triều đại Octavian Augustus (27 tr. CN - 14 s. CN) và Tiberius (14-37 s. CN) ở Roma, nhưng cả 2 vị hoàng đế này chưa từng một lần đặt chân tới vùng bảo hộ Palestina là quê hương của Chúa.
IV. TỔNG KẾT
Tóm lại, khoa phê bình lịch sử sau hơn 200 năm nghiên cứu và tranh luận đến nay - không kể những đổ vỡ tiêu cực - đã đạt được những điểm tích cực rất đáng tin cậy về lý lịch của Chúa Giêsu như sau:
(1). Họ và tên: J.hoschua (tiếng Do Thái) hoặc Jesua hay là Jesu (tiếng Aramê)
(2). Quốc tịch: Do thái, thuộc hoàng tộc David.
(3). Năm sinh: 7 tr. CN (trước khi vua Herôđê băng hà ít lâu: 4 tr. CN)
(4). Nơi sinh: có lẽ là Belem.
(5). Nơi thường trú: Nazareth.
(6). Ngôn ngữ: tiếng Aramê của miền Galilêa.
(7). Cha mẹ: Joses và Mirjam.
(8). Nghề nghiệp: có lẽ theo nghề "teknos" ("thợ mộc") của cha.
(9). Tình trạng: độc thân.
(10). Liên hệ: có liên lạc với Gioan TG, lúc mới ra hoạt động và đánh giá vị này rất cao.
(11). Hoạt động công khai: bắt đầu lúc Ngài chừng 30 tuổi.
(12). Địa bàn hoạt động: Khác với Gioan TG, Chúa Giêsu giảng dạy khắp nơi, nhưng phần lớn chung quanh hồ Gennesareth, mà trọng tâm là thành phố ngư phủ Capharnaum. Thời gian hoạt động chừng 2 năm rưỡi.
(13). Tâm tình với thủ đô: nhiều lần lên Giêrusalem.
(14). Đề tài rao giảng: Nước Chúa đã gần.
(15). Hoạt động nổi bật nhất: chữa bệnh.
(16). Thái độ với ngày Sabbat: thái độ này đã gây bất mãn cho giới thẩm quyền và những người "mộ đạo".
(17). Cảm tình: Ngài được mến mộ, vì tiếp xúc với mọi hạng người, đặc biệt hạng "Amme-ha-Arez" (dân quê) và những người có tội công khai.
(18). Môn đệ: dù không phải là Rabbi, nhưng Ngài cũng thu thập một số (70/72) môn đệ, trong số đó Ngài đã chọn ra 12 Tông đồ.
(19). Thành công: lúc ban đầu, vì đa số tin rằng Ngài là Đấng Messia.
(20). Thất bại: với thời gian số người tin theo giảm dần, chỉ còn lại một số nhỏ (Lc 12, 32).
(21). Hiểu lầm: Cố gắng tránh phát biểu về chính trị, nhưng thường chỉ trích giới thẩm quyền tôn giáo và tấn công mãnh liệt hình thức phụng tự trong Đền thờ.
(22). Bữa Tiệc Ly: Trong lần cuối cùng có mặt tại Giêrusalem, Ngài đã dùng bữa Tiệc Ly với các tông đồ. Bữa tiệc này không phải là bữa tiệc bình thường như lời nói và cử chỉ của Ngài trong bữa tiệc đó minh chứng.
(23). Nội công: Ngài bị bắt vì 1 người trong nhóm 12 phản bội.
(24). Tội phạm: Giới thẩm quyền Do thái đã tố cáo Ngài phạm thượng.
(25). Bản án: Chính quyền Roma, đại diện là Pontio Philatô, đã lên án Ngài vì lý do chính trị: hiểu lầm Đấng Messia theo quan niệm đương thời (titulus crucis là "Vua Do thái").
(26). Hành quyết: Ngài bị đóng đinh sau trưa ngày lễ Vượt Qua (7. 4. 30) tại một nơi nằm ngoài vòng đai thủ đô Giêrusalem.
(27). Mai táng: trong cùng ngày đó, tại một chỗ không xa nơi hành quyết.
(28). Mồ trống: ngay sau ngày Sabbat.
(29). Phục sinh: Các môn đệ của Ngài xác tín và làm chứng rằng, đã được xem thấy và tiếp chuyện Ngài như một người vẫn sống.
(30). Tác phẩm: Ngài không để lại một bút tích nào cho thế hệ tương lai.

Như thế, khách quan mà nói, chúng ta biết hơi ít và rất tương đối về lý lịch Chúa Giêsu. Tuy nhiên, theo A. Schlatter và P. Althaus, thì không một nhân vật cổ thời nào được ghi lại tương đối kỹ lưỡng cho bằng Chúa Giêsu.
Còn theo H. Kueng (xem: Die Weltreligionen als Herausforderung (Wir in unserer Welt). Herne 1990) những điều chúng ta biết về Ngài vẫn chi tiết, xác thực và đầy đủ hơn những điều nhân loại biết về các vị sáng lập những tôn giáo lớn đồng thời với Ngài. Dĩ nhiên, sẽ có những độc giả không đồng ý với điểm này điểm nọ trong những điểm vừa trình bày trên đây. Điều đó dễ hiểu, vì ngay cả những kết quả nghiên cứu của các tác giả nổi danh tới nay vẫn còn khá nhiều bất đồng. Bài này chỉ cố gắng đi tìm một "mẫu số chung" cho nhiều "phân số" bất đồng, chỉ cố gắng đi tìm một "con đường mòn" được nhiều người ái mộ trong "rừng sách" mênh mông. Hơn nữa, những kết quả của các cuộc nghiên cứu lâu năm, tuy được các ngành khoa học khác nhau kiểm chứng dưới ánh sáng của lý trí, nhưng chúng vẫn còn là (hoặc mãi là) những giả thuyết.

Giả thuyết thì chưa thực. Giả thuyết thì tương đối. Nhưng cái chưa thực còn
hơn cái hư ảo. Cái tương đối còn hơn cái mơ hồ.
Người viết chỉ mới chập chững đi tìm những chi tiết lịch sử về Chúa Giêsu, không phải vì "hùa theo" đặt lại vấn đề, cũng không lấy hồ nghi làm động lực, nhưng là vì nhu cầu của con tim. Con tim của một người con. Người con mới mở mắt vào đời đã "mồ côi" cha, mà khoảng cách giữa lúc Cha lìa đời và con vào đời đã 2.000 năm. Cho nên, bất cứ một dấu vết lịch sử nào - tuy tương đối - về lý lịch của người Cha đó, cũng đủ làm cho đứa con sinh sau đẻ muộn này mãn nguyện và hạnh phúc lắm rồi.
Lm J. Vũ xuân Huyên
MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO:
I. BiKi 24 (1969) tập 2
II. Leroy, H., Jesus. Ueberlieferung und Deutung (Ertraege der Forchung 95). Darmstadt: Wiss. Buchges. 1978.
III. Tiết mục: Versuch einer Chronologie des Lebens Jesu, in: Mertens, H. A., Handbuch der Bibelkunde. Duesseldorf: Patmos 1984, 287-295.
IV. Schmid, J., Das Evangelium nach Lukas (Regensburger NT III): Das 15. Jahr des Kaisers Tiberius und die Chronologie des Lebens Jesu. Regensburg: Pustet (1) 1940 - (4) 1960, 94 tt.
V. Trilling, W., Fragen zur Geschichtlichkeit Jesu. Duessedorf: Patmos/ Leipzig: St. Benno 1966.
VI. Trilling, W., Vielfalt und Einheit im NT (Unterweisen und Verkuenden 3). Einsiedeln-Zuerich-Koeln: Benziger 1968.
VII. Chữ: Jesus von Nazareth; trong: G. Cornfeld - G. J. Botterweck (xb.), Die Bibel und ihre Umwelt (Pictorial Biblical Encyclopedia. Tel Aviv 1964). Bergisch-Gladbach: G. Luebbe 1988, 762-776.
VIII. Gnilka, J., Jesus von Nazaret. Botschaft und Geschichte. (HThK NT, Suppl.III). Freiburg-Basel-Wien: Herder (2) 1991.
CHÚ THÍCH
(1) Người ta ước lượng từ ngày thành lập Giáo Hội với 120 người trong ngày Hiện Xuống (Tđcv 1, 15) cho tới nay đã có 5 tỷ tín hữu và 5 triệu giáo sĩ.
(2) Kitô là một tước hiệu, Giêsu là tên. Tước đi trước tên.
(3) Ngày nay không thể chỉ căn cứ vào Mt 16, 18 để chứng minh rằng Chúa Giêsu đã thiết lập GH, vì hầu hết các tác giả Công giáo cũng như Tin lành tên tuổi thuộc khoa Thần học Tân Ước cũng như Thần học Cơ bản đều cho rằng câu này đã bị GH sơ khai sửa đổi hoặc thêm vào. Số tác giả chủ trương Chúa Giêsu không hề muốn thiết lập GH không phải là ít. Do đó, những người chống đối GH lại càng có thế để ăn nói. Riêng về phần GH, trong mấy chục năm qua cũng cho thấy sự thay đổi đáng lưu ý trong cách thức trình bày vấn đề khúc mắc này qua các văn thư chính thức. Người viết hy vọng, khi thời giờ cho phép, sẽ cố gắng trình bày thêm về cuộc tranh luận này và mạn phép đề nghị một giải pháp cho vấn đề trong một bài khác.
(4) Mới đây M. Baigent và R. Leigh tung ra cuốn sách "Dead Sea scrolls deception" tố cáo Vatican đã "cản mũi kỳ đà" trong công cuộc nghiên cứu các cuộn văn tìm thấy ở Qumran, vì Vatican sợ tài liệu cổ kính này có thể tiết lộ những chi tiết thất lợi cho Kitô giáo (và cả Do thái giáo). Đó là một vu khống vô căn cứ, vì: (1) Vatican không độc quyền hoặc có ảnh hưởng lớn trong việc nghiên cứu này. Ngay từ ban đầu ủy ban nghiên cứu đã gồm các thành viên quốc tế và thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau. (2) 80 % tài liệu không phải là các bản văn Kinh Thánh đã được phổ biến, số còn lại là vì rách nát nên chưa chắp nối lại được và vì thế cũng chưa đọc được. (3) Các tài liệu đã phổ biến không tiết lộ đích danh về Chúa Giêsu. Chỉ có 1 chỗ (dài 5 dòng!) nói tới Đấng Messia phải chịu đau khổ, mà người ta cũng không thể xác định nổi đoạn văn này có ý tiên báo việc Đấng Messia sẽ chịu đau khổ (thì tương lai) hay là đoạn văn có ý tường thuật việc Ngài đã chịu đau khổ (thì quá khứ) nói chi đến việc xác định đoạn văn này có ý nói về Chúa Giêsu hay nói về một vị Messia nào đó thôi! Nên biết trước đó, vào năm 1984 M. Baigent và R. Leigh cũng đã tung ra một cuốn sách khác "tiết lộ" rằng Chúa Giêsu không sống độc thân nhưng đã lập gia đình. Hiền thê của Ngài là Maria Magdalena!
(5) Chúng ta nên biết không có một cuốn sách cổ thời nào đáng tin cậy và được hoàn tất nhanh chóng cho bằng cuốn TƯ của chúng ta. Chỉ xin đưa vài thí dụ: Ilias và Odysee của Homer được hoàn tất lần đầu tiên vào thế kỷ 11 s. CN, dù Homer đã sống vào thế kỷ 8 tr. CN. Như thế giữa tác giả và tác phẩm cách nhau 1.800 năm! Các tác phẩm của Platon được viết vào những năm 427-357 tr. CN, thế nhưng toàn bộ tác phẩm của ông mà chúng ta có hiện nay lại xuất hiện lần đầu
vào năm 895 s. CN. Như thế, giữa tác giả và tác phẩm cách nhau 1.300 năm! Tác phẩm của Horaz cũng mới hoàn tất vào thế kỷ thứ 8, tác phẩm của Caesar cũng mới hoàn tất vào thế kỷ thứ 10, nghiã là sau đó 1.000 năm.
(6) Giêsu hiện nay vẫn còn được dùng làm tên gọi tại Tây ban Nha và Nam Mỹ.
(7) Để đơn giản việc trích dẫn, người viết quyết định dùng cách thức sau đây: những số trong ngoặc, số La mã chỉ tài liệu được ghi ở phần cuối bài, số Ả rập chỉ trang trong tài liệu đó.
(8) Giáo Hội Đông Phương cho tới nay vẫn mừng Giáng Sinh vào ngày 6. 1 mỗi năm. Còn vào thế kỷ thứ 3, Clement Alexandria lại cho mừng vào ngày 19. 4.
(9) Trong cách phân chia phía dưới chúng ta sẽ tự do uyển chuyển theo hai niên hiệu trung dung này.
(10) Jericho là thành phố cổ kính nhất thế giới còn để lại tàn tích cho tới ngày nay. Các nhà khảo cổ cho rằng thành phố này đã có từ 10.000 năm trước đây với khoảng 3.000 dân cư. Vào thời đó một thành phố với số dân như thế đã là một thành phố lớn rồi.
(11) Trước cơn đại hồng thủy trời cũng nưa 40 ngày đêm;tiên tri Elia đi 40 ngày mới tới Horeb.
(12) Sau mùa thu hoạch nho và ô liu.
(13) Điển hình là chị em Martha, Maria và Lazarô tại Bethania cách đó không xa.
(14) Ngôi hội đường này dài 24 m rộng 18 m cộng thêm một tiền đường,bị sập vì động đất. Hình thức hiện nay đã được chỉnh trang lại một phần.
(15) Khoảng 1.000 tr. CN, nhưng chắc chắn thành phố này đã có từ năm 1.800 tr. CN với tên cũ là Salem.
(16) Mùa gặt lúc mì, 50 ngày sau lễ Bánh Không Men.
(17) Không rõ 70 hay 72, vì có nhiều bản TƯ chép tay cổ xưa lại ghi là 72!
(18) Tuy nhiên, có tác giả lại coi việc thanh tẩy Đền thờ là lý do trực tiếp đưa đến cái chết của Chúa
 (19) Khác với những nhóm khác đương thời, trong các PÂ không hề đề cập tới nhóm này.
(20) Việc giới hạn rước Máu Thánh trong các Thánh Lễ như hiện nay - theo thiển ý - là điều đáng tiếc, vì như thế làm giảm tính cách "đại tiệc" của mỗi Thánh Lễ. Khi có thể và được phép, nên ủng hộ việc rước lễ dưới hai hình thức và chọn cách thức sao cho hợp với ý mọi người tham dự.
(21) Via dolorosa với 14 chặng như hiện nay là do các tu sĩ Dòng Phanxicô mới cắm mốc từ thế kỷ 16.
(22) Vào thời Trung Cổ người ta cho rằng: 3 thứ ngôn ngữ được dùng để viết ở đây tượng
trưng cho 3 thứ "ngôn ngữ thánh" của GH thời sơ khai.
(23) Đây là lời kinh của người lâm nạn - giống như người Tôi Tớ Giavê trong Is 52-53, lòng đầy tín thác [như thấy trong câu: "Chúa là sức mạnh con nương,/ Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đúng xa, và câu cuối: "Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa/ Cho anh em tất cả được hay, / Và trong đại hội dân Ngài, / Con xin dâng tiến một bài tán dương] thưa lên cùng Thiên Chúa. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã đọc trọn lời kinh của Thánh vịnh này: Ngài bắt đầu đọc lớn tiếng; sau đó đuối sức, Ngài đọc thì thầm, hoặc ít nhất là trong lòng.
(24) Giờ thứ 9 là một giờ kinh (Nona) của Do thái giáo


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bài 1: Hãy Lo Cho Được Hạnh Phúc Đời Đời I. Chúng ta có quá nhiều việc phải làm, quá nhiều điều phải lo. Nhưng chỉ có một việc hệ t...